Giá cà phê hôm nay 25/12/2020: Bật tăng trên cả 2 sàn trong nước và thế giới

(VOH) - Giá cà phê ngày 25/12 tăng 100- 200 đồng/kg tại hầu hết các địa phương vùng trồng cà phê trọng điểm Tây Nguyên và Miền Nam. Giá thế giới phục hồi tăng.

Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 33.100 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 32.400 đồng/kg.

Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng tăng 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà lên mức 32.500 đồng/kg, tại Di Linh lên ngưỡng 32.400 đồng/kg.

Giá cà phê tại Đắk Lắk cũng tăng 100 đồng/kg, tại Cư M'gar dao động lên mức 33.100 đồng/kg, tại Buôn Hồ  giá cà phê  lên  ngưỡng 32.900 đồng/kg.

Giá cà phê tại Gia Lai tăng 100 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch lên mức 32.800 đồng/kg.

Giá cà phê tại Đắk Nông tăng 100 đồng/kg, dao động lên ngưỡng 32.800 đồng/kg.

Riêng giá cà phê tại Kon Tum tăng 200 đồng/kg, dao động lên mức 32.700 đồng/kg.  

Giá cà phê giao tại cảng TP HCM tăng 100 đồng/kg dao động lên ngưỡng  34.500 đồng/kg.

Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.493 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 80 – 100 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 5 tại London.

Tỉnh
/huyện (khu vực khảo sát)

Giá thu mua
Đơn vị: VNĐ/kg

Thay đổi

LÂM ĐỒNG

 

 

— Bảo Lộc (Robusta)

32,500

+100

— Lâm Hà (Robusta)

32,500

+100

— Di Linh (Robusta)

32,400

+100

ĐẮK LẮK

 

 

— Cư M'gar (Robusta)

33.100

+100

— Buôn Hồ (Robusta)

32,900

+100

GIA LAI

 

 

— Pleiku (Robusta)

32,800

+100

_ Ia Grai (Robusta)

32,800

+100

ĐẮK NÔNG

 

 

— Gia Nghĩa (Robusta)

32,800

+100

KON TUM

 

 

— Đắk Hà (Robusta)

32.700

+200

TP.HỒ CHÍ MINH

 

 

— R1

34,5 00

+100

Giá cà phê hôm nay 25/12/2020
Ảnh minh họa: internet

Ở thị trường trong nước những ngày đầu tháng 11, giá cà phê trong nước tăng so với cuối tháng 10. Ngày 9/11, giá cà phê trong nước tăng từ 500 – 600 đồng/kg (tương đương mức tăng từ 1,5 – 1,9%) so với ngày 30/10.

Tại cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, cà phê Robusta loại R1 tăng 1,7% so với ngày 30/10, lên mức 34.900 đồng/kg.

Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu, xuất khẩu cà phê tháng 11 giảm 23,1% về lượng và giảm 18,7% về trị giá so với tháng 10, so với tháng 11/2019 giảm 37,5% về lượng và giảm 30% về trị giá, đạt 70 nghìn tấn, trị giá 137 triệu USD.

Tính chung 11 tháng năm 2020, xuất khẩu cà phê ước đạt 1,41 triệu tấn, trị giá 2,46 tỉ USD, giảm 3,9% về lượng và giảm 2,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.

Giá xuất khẩu bình quân cà phê tháng 11 ước đạt mức 1.963 USD/tấn, tăng 5,7% so với tháng 10 và tăng 12,2% so với tháng 11/2019.

Trong 11 tháng năm 2020, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt mức 1.745 USD/tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2019.

Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê robusta tháng 10 đạt 76,8 nghìn tấn, trị giá 119,2 triệu USD, tăng 4,4% về lượng và tăng 9,1% về trị giá so với tháng 10/2019.

Trong 10 tháng năm 2020, xuất khẩu cà phê robusta đạt 1,14 triệu tấn, trị giá 1,71 tỉ USD, giảm 1,1% về lượng và giảm 2,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.

Trong đó, xuất khẩu cà phê robusta sang một số thị trường chính giảm, như: Mỹ, Tây Ban Nha, Nga, Bỉ, Thái Lan, Malaysia, Anh, Ấn Độ, Pháp; ngược lại, xuất khẩu cà phê robusta sang các thị trường khác tăng, gồm: Đức, Italy Nhật Bản, Philippines.

Tháng 11, giá cà phê trong nước tăng so với cuối tháng 10. Ngày 28/11, giá cà phê trong nước tăng từ 1,2 – 1,9% so với ngày 30/10.

Mức tăng cao nhất 1,9% tại huyện Đắk Hà tỉnh Kon Tum, lên mức 33.000 đồng/kg. Tại cảng khu vực TP HCM, cà phê robusta loại R1 tăng 400 đồng/kg (1,2%) so với ngày 30/10, lên mức 34.700 đồng/kg.

Giá cà phê thế giới phục hồi tăng

Khối lượng thương mại rất thấp trên cả hai sàn cà phê kỳ hạn do đóng cửa sớm và phần lớn nhà đầu tư đã đi nghỉ lễ Giáng Sinh.

Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)

Kỳ hạn

Giá khớp

Thay đổi

%

Số lượng

Cao nhất

Thấp nhất

Mở cửa

Hôm trước

HĐ Mở

01/21

1369

+10

+0.74

21

1375

1363

1363

1359

6560

03/21

1383

+5

+0.36

2062

1388

1375

1375

1378

44707

05/21

1393

+6

+0.43

913

1397

1391

1393

1387

20264

07/21

1406

+5

+0.36

81

1410

1405

1408

1401

16755

Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)

Kỳ hạn

Giá khớp

Thay đổi

%

Số lượng

Cao nhất

Thấp nhất

Mở cửa

Hôm trước

HĐ Mở

12/20

125.95

+1.40

+1.12

8991

127.65

124.5

124.5

124.55

110975

03/20

127.85

+1.40

+1.11

1841

129.5

126.55

126.65

126.45

45188

05/21

129.45

+1.45

+1.13

914

131

128.35

128.35

128

35167

07/21

130.95

+1.50

+1.16

898

132.45

129.55

129.55

129.45

27665

Giá cà phê thế giới lúc 9h00 ngày 25/12, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London có xu hướng hồi phục. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng 5 USD, lên 1.383 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 5 tăng 6 USD, lên 1.393 USD/tấn, các mức tăng nhẹ. Khối lượng giao dịch rất thấp dưới mức trung bình.

Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cũng cùng xu hướng hồi phục. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng thêm 1,4 cent/lb, lên 125,95 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5 cũng tăng thêm 1,4 cent, lên 127,85 cent/lb, các mức tăng rất đáng kể. Khối lượng giao dịch rất thấp dưới mức trung bình.

Đồng Reais giảm thêm 0,24 %, xuống đứng ở mức 1 USD = 5,2160 Reais do mối lo từ thị trường ngoại hối khi USDX tăng sau sự đe dọa phủ quyết gói tài trợ mới nếu Quốc hội Mỹ không nhanh chóng xem xét, điều chỉnh.

Tuy màu xanh đã bao phủ trên hầu hết các thị trường nhưng chỉ là sự điều chỉnh cân đối vị thế đầu cơ trước kỳ nghỉ Giáng Sinh kéo dài hơn là sự tăng mua. Đặc biệt, khối lượng thương mại rất thấp còn do các sàn cà phê đóng cửa sớm và phần lớn nhà đầu tư đã rời khỏi thị trường với kỳ nghỉ kéo dài sang đầu tuần sau.

Cho dù đến nay đã thu hoạch được khoảng 60 – 70% vụ mùa Robusta mới nhưng nông dân Việt Nam không vội bán hàng ra vì giá London hiện dao động ở mức quá thấp, người trồng cà phê không có lợi nhuận. Trong khi đó, chất lượng hạt cà phê vụ mới được đánh giá khá cao khi diện tích vùng cà phê đặc sản ngày càng mở rộng và công nghệ sau thu hoạch được chú trọng nhiều hơn..

Một thông tin khác, Sindhupalchok là một huyện thuộc khu Bagmati, miền Trung Nepal, giáp với biên giới Trung Quốc.

Theo Hiệp hội Hợp tác xã Cà phê Sindhu, mỗi năm, Sindhupalchok sản xuất khoảng 24 tấn cà phê và 1/3 trong số đó đã được xuất khẩu, chủ yếu sang các nước Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc,...

Trong năm 2020, huyện Sindhupalchok đã xuất khẩu hơn 7 tấn cà phê bất chấp sự ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, The Kathmandu Post đưa tin.

Xuất khẩu cà phê của huyện Sindhupalchok cho đến nay vẫn duy trì quanh mức ổn định. Trong khi đó, các lĩnh vực còn lại của nền kinh tế, bao gồm cả thương mại, bị tê liệt do các biện pháp phong tỏa trong bối cảnh đại dịch.