Giá thép xây dựng hôm nay 29/12/2020: Giá thép thanh và quặng sắt đều giảm

(VOH) - Giá thép ngày 29/12 giảm Sàn giao dịch Thượng Hải. Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên phiên vừa qua giảm 0,2%. Thép và quặng sắt Ấn Độ đang tăng cao trong thời gian gần đây.

Giá thép thế giới giảm nhẹ

Giá thép ngày 29/12 giao tháng 5/2021 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 58 nhân dân tệ xuống mốc 4.242 nhân dân tệ/tấn tại thời điểm khảo sát vào lúc 8h45 (giờ Việt Nam).

Giá thép xây dựng hôm nay 29/12/2020
Ảnh minh họa: internet

Bảng giá giao dịch tương lai của một số kim loại trên sàn Thượng Hải (Đơn vị: nhân dân tệ/tấn)

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên phiên vừa qua giảm 0,2% còn 1.032 CNY/tấn, trong khi quặng sắt 62% nhập khẩu cũng giảm xuống 166 USD/tấn ở phiên liền trước.

Vào hôm thứ Hai (28/12), giá quặng sắt kỳ hạn chốt phiên thấp hơn trong phiên giao dịch ban ngày tại Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE), Tân Hoa Xã đưa tin.

Theo đó, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2021 giảm 7,5 nhân dân tệ (tương đương 1,1 USD), ghi nhận mức 1.025 nhân dân tệ/tấn.

Tại cùng thời điểm, tổng khối lượng giao dịch của 12 hợp đồng quặng sắt kỳ hạn niêm yết trên sàn giao dịch là 484.378 lô, với kim ngạch là 50,2 tỷ nhân dân tệ.

Theo The Kathmandu Post, đại diện của ngành sắt thép Ấn Độ đã thúc giục chính phủ áp đặt lệnh cấm xuất khẩu sắt thép sang Nepal. Kết quả là giá hai mặt hàng này trên thị trường nội địa đã tăng vọt trong thời gian qua.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất và nhà thầu thép trong nước hy vọng rằng Ấn Độ sẽ không áp đặt lệnh cấm, vì tỷ trọng nhập khẩu sắt thép từ Nepal không đáng kể so với các nước khác.

Giá sắt thép trên thị trường Nepal cũng tăng lên theo tỷ lệ tương ứng tại thị trường Ấn Độ. Tuy nhiên, trong thời gian tới, ngành sắt thép dự kiến sẽ phải chứng kiến mức tiêu thụ giảm đáng kể do những bất ổn chính trị và nguồn đầu tư hạn hẹp.

Nhu cầu thép trong nước sẽ tăng

Nhận định về thị trường thép năm 2021, SSI Research ước tính nhu cầu thép sẽ tăng khoảng 3-5% từ mức cơ sở thấp trong năm 2020, nhờ kỳ vọng kinh tế vĩ mô chung phục hồi, cùng với hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng đặc biệt là các dự án trọng điểm mang tính cấp bách như cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, sân bay quốc tế Long Thành...

Bên cạnh đó, Việt Nam còn có cơ hội lớn trong thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ khả năng kiểm soát tốt dịch bệnh, chi phí nhân công rẻ.... Do vậy, khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam thì nhu cầu đầu tư nhà xưởng, khu công nghiệp sẽ tăng lên, kéo theo nhu cầu về thép xây dựng tăng theo.

Ngoài ra, các cơ hội từ hội nhập đặc biệt là việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA cũng được kỳ vọng thúc đẩy ngành thép sản xuất, xuất khẩu ra các thị trường mới.

Đối với CPTPP, việc gỡ bỏ loạt thuế quan sẽ giúp các doanh nghiệp ngành thép Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời nhập khẩu nguyên liệu từ các quốc gia có lợi thế như Australia.

Theo Chứng khoán BSC, các nước thành viên CPTPP là nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất thép cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đơn cử, Australia là nước cung cấp than đá và quặng chủ yếu cho nước ta, lần lượt chiếm 25,7% và 22,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.

Ngoài ra, hơn 50% lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất phôi cũng là từ các nước thuộc CPTPP. Một số thành viên như Canada, Malaysia cũng có nhu cầu lớn nhập khẩu nhiều thép thành phẩm.

Trước đó, ASEAN và Mỹ là hai thị trường dẫn đầu về xuất khẩu thép của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ tăng cao, theo các chuyên gia, việc chuyển hướng xuất khẩu, mở rộng sang các thị trường khác là cần thiết.

Trong khi đó, EVFTA có hiệu lực từ 1/8/2020 được kỳ vọng sẽ giúp cho ngành thép rộng đường và thêm cơ hội xuất khẩu sang thị trường EU. Về mặt lý thuyết, khi EVFTA có hiệu lực sẽ mở ra cơ hội lớn cho các ngành nghề; trong đó có ngành thép.

Tuy nhiên, thị trường các nước EU ở trạng thái bão hòa với các giao dịch thương mại thép, các hoạt động chủ yếu trong nội khối. Theo số liệu của VSA, thị trường EU chiếm khoảng 4,2% tổng lượng xuất khẩu thép của Việt Nam. Trong khi đó, thị trường truyền thống là ASEAN, Trung Quốc vẫn chiếm tỷ lệ lớn, lần lượt gần 55% và 19%...

Do đó, để vào được thị trường EU, đòi hỏi các sản phẩm phải đạt rất nhiều tiêu chuẩn cao và khắt khe. Các nhà sản xuất thép Việt Nam muốn đáp ứng được tiêu chuẩn đó phải cải tiến công nghệ, kỹ thuật, thay đổi các quy trình sản xuất của mình, thay đổi các phương thức kinh doanh.