Table of Contents
I. Chuẩn bị
1. Chuẩn bị
Đọc trước văn bản Thăng Long - Đông Đô – Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam, tìm hiểu lịch sử, ý nghĩa của các tên gọi “Thăng Long”, “Đông Đô”, “Hà Nội” và thông tin về nhà sử học Trần Quốc Vượng.
Phương pháp giải:
- Đọc kỹ văn bản được giới thiệu
- Tìm hiểu trước về ý nghĩa của các tên gọi “Thăng Long”, “Đông Đô”, “Hà Nội”
- Tìm hiểu nguồn gốc của các tên gọi “Thăng Long”, “Đông Đô”, “Hà Nội”
- Tìm hiểu thông tin về nhà sử học Trần Quốc Vượng, về cuộc đời, sự nghiệp và hoàn cảnh sống
Lời giải chi tiết:
* Thăng Long:
- Ý nghĩa: Thăng Long, trong tiếng Nhật có chữ "Thăng", "Long" có nghĩa là "Rồng". Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép, không chỉ có “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa là “Rồng (bay) trong mặt trời mọc”. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Lịch sử: Đất hiền tài trước khi trở thành kinh đô của Đại Việt vào thời Lý (1010) đã là mảnh đất đặt nền móng cho các quan lại nhà Tùy (581-618), nhà Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành đến nay, Thăng Long - Hà Nội có tổng cộng 16 tên gọi thông thường và không thường xuyên, đó là: Long Đỗ, Tống Bình, Đại La, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Bắc Thành, Hà Nội, Trang An, Phương Thanh,...
* Đông Đô: Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397), ông lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) và coi như là Đông Đô” (Toàn thư số tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, sứ nhà Nguyễn có ghi: “Đông Đô tức là Thăng Long, lúc đó Thanh Hóa gọi là Tây Đô, Thăng Long gọi là Đông Đô”.
* Hà Nội: Tên gọi Hà Nội được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỳ), với chú thích: “Kinh đô xưa chủ yếu ở phía đông Hoàng Hà, nên gọi là phía bắc Hoàng Hà. Hoàng Hà là Hà Nội". Có thể Minh Mạng đã chọn cái tên Hà Nội, một cái tên rất bình thường, để thay cho cái tên gợi cảm Thăng Long. Người ta căn cứ vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, Thượng) "Nếu mất mùa ở Hà Nội lấy người về Hà Đông, lúa đưa về Hà Nội, mất mùa ở Hà Đông cũng theo luật như vậy”.
2. Tác giả tác phẩm
a. Tác giả Trần Quốc Vượng
Tiểu sử
- Trần Quốc Vượng, 12/12/1934 - 8/8/2005, là một giáo sư, nhà sử học, nhà khảo cổ học Việt Nam
- Ông được xem là một trong tứ trụ của sử học Việt Nam đương đại
- Ông sinh tại huyện Kinh Môn, Hải Dương nhưng quê quán ở thôn Lê Xá, xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
- Sau khi tốt nghiệp thủ khoa cùng với Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm năm 1956 ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp
- Ngày 22/09/2003, ông lập gia đình lần thứ 2 với người vợ trẻ kém ông gần 30 tuổi
- Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ban văn hóa nghệ thuật
Sự nghiệp văn học
Ông đã viết nhiều bài nghiên cứu khoa học (trên 400 bài) đăng trên các tạp chí chuyên môn trong nước (khảo cổ, lịch sử, văn học, văn hóa dân gian, văn hóa nghệ thuật,...) và ngoài nước
Ngoài ra, ông đã viết và được in ấn nhiều sách (trên 40 cuốn) ở cả trong và ngoài nước, có thể kể đến như:
- Việt Nam khảo cổ học (tiếng Nhật, Tokyo, 1993)
- Trong cõi (California, 1993)
b.Tác phẩm
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam
Xuất xứ
Văn bản in trong tập Văn hóa Hà Nội, tìm tòi và suy ngẫm, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2010.
Bố cục: 2 phần
- Phần 1: Sự hình thành văn hóa Hà Nội
- Phần 2: Nếp sống thanh lịch của người Hà Nội
II. Đọc hiểu văn bản Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam - Ngữ Văn 10 Cánh diều
1. Đọc văn bản
2. Trả lời câu hỏi phần đọc hiểu
Câu 1 trang 95 tập 1 Ngữ Văn 10 CD
Văn hoá Hà Nội được hình thành dựa trên sự kết hợp của những yếu tố nào?
Gợi ý:
Văn hoá Hà Nội được hình thành dựa trên sự kết hợp của những yếu tố:
- Trữ lượng folklore (dân gian) phong phú, ca dao, tục ngữ, dân ca, chèo, múa rối, truyện cổ tích, ... của vũng Đông, Nam, Đoài, Bắc kết tụ chọn lọc và nâng cao trên cái có sẵn của vùng non nước Hồ Tây - Hồ Gươm, núi Nùng, núi Khán mà trở thành folklore Hà Nội.
- Truyền thống lễ hội văn hóa dân gian, sinh hoạt văn hóa tôn giáo lâu đời
- Văn hoá dân gian không tách rời mà kết hợp, hoà hợp với văn hóa cung đình và được “chính thức hoá" và “sang trọng hoá". Cái sang trọng bao giờ cũng là một sắc thái cần và bắt buộc của văn hoá Thủ đô, văn hoá Thăng Long - Hà Nội.
Câu 2 trang 96 tập 1 Ngữ Văn 10 CD
Điều gì đã tạo nên nếp sống thanh lịch của người Hà Nội?
Gợi ý:
- Hà Nội là nơi tập trung của những người Việt Nam lao động giỏi, làm thợ giỏi, làm thầy cũng giỏi. Là nơi tích tụ tinh hoa bốn phương → thông minh, tài hoa
- Nhu cầu lựa chọn, đòi hỏi và có điều kiện thỏa mãn việc tiêu dùng “của ngon vật lạ” từ các nơi đổ về. Từ đó có mạng lưới làng quê tập trung sản xuất đặc sản chuyên biệt → biết hưởng thức, tận hưởng, sành ăn, sành mặc.
- Có điều kiện thuận lợi để giao lưu và tiếp thu văn hóa cộng thêm truyền thống hiếu học → nhanh nhạy, hiểu biết và mẫn cảm về chính trị - tình cảm.
⇒ Qua thời gian đã mài giũa ra những người con Hà Nội thanh lịch, tinh tế, tài hoa, phong lưu về vật chất, phong phú về tinh thần, sang trọng mà không xa hoa, cởi mở mà không lố bịch.
III. Đọc hiểu nội dung Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam - Ngữ Văn 10 Cánh diều
1. Ý nghĩa nhan đề của văn bản
- Nhan đề của văn bản giúp tác giả làm nổi bật thông tin chính: văn hóa Hà Nội là một “hằng số tuyệt vời” của văn hóa Việt Nam.
- “Hằng số văn hóa”: những yếu tố khách quan mang tính vũ trụ cố định (còn gọi là yếu tố địa văn hóa) đã tạo nên nền tảng của một nền văn hóa dân tộc, từ đó nảy sinh những nét đặc trưng cơ bản, không thay đổi trong lịch sử và mai sau.
2. Đề tài của văn bản
Đề tài của văn bản: Viết về văn hóa Việt Nam – cụ thể là văn hóa Hà Nội.
Dấu hiệu xác định
- Thông qua nhan đề của văn bản
- Thông qua các chi tiết, thông tin trong văn bản
3. Thông tin chính của văn bản
Văn bản được chia làm 2 phần:
Phần 1: Sự hình thành văn hóa Hà Nội
- Phương diện nội dung:
- Lịch sử hình thành văn hóa Hà Nội qua các triều đại lịch sử: Triều đình Lý – Trần; nhà nước dân tộc Lý – Trần – Lê.
- Các yếu tố dẫn đến sự hình thành văn hóa Hà Nội: Sự kết hợp giữa yếu tố Văn hóa dân gian và văn hóa cung đình.
- Phương diện hình thức: Dấu ngoặc đơn (dùng để chú giải); các số chú thích (giải nghĩa từ ngữ)
Phần 2: Nếp sống thanh lịch của người Hà Nội
- Phương diện nội dung:
- Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến việc hình thành nếp sống thanh lịch của người dân Hà Nội
- Trích dẫn những bài thơ và thành ngữ, tục ngữ để hoàn thiện và làm rõ nội dung
- Về hình thức: Chữ in nghiêng (giúp người đọc dễ nhận biết vị trí, mối quan hệ của thông tin); dấu ngoặc (dùng để chú giải)
4. Kết nối thông tin
a. Lĩnh vực lịch sử
Triều đình Lý Trần đưa việc thờ cúng các anh hùng dân tộc như Phù Đổng, Hai Bà Trưng, …
Nhà nước dân tộc Lý – Trần – Lê lại nâng các lễ hội đua thuyền, đấu vật, hất phết, …
Thành phố Rồng Bay có trường cao cấp về Văn (Quốc Tử Giám), về Võ (Giảng Võ Đường) từ thế kỉ XI…
b. Lĩnh vực địa lý
Hà Nội, như các nhà địa lý học nhận định, là thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng…
Đông, Nam, Đoài, Bắc, mỗi vùng đều có một trữ lượng Folklore, …
Các địa danh: Hồ Tây – Hồ Gươm, núi Nùng, núi Khán, …
c. Văn hóa, xã hội
Trước hết, người Hà Nội, kết quả của tinh hoa bốn phương tụ hội, đua trí, đua tài, …
Hình thành một mạng lưới làng quê sản xuất…
d. Lĩnh vực Văn học
Khéo léo tay nghề, đất lề Kẻ Chợ …
Gắng công kén được Cốm Vòng/ Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
Bán mít chợ Đông/Bán hồng chợ Tây/…
Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây; giò Chèm, nem Vẽ, …
5. Các phương pháp trình bày văn bản
Văn bản sử dụng phương thức thuyết minh kết hợp với những phương thức như: tự sự, nghị luận
- Phương thức tự sự: Kể về sự hình thành của văn hóa Hà Nội
- Phương thức nghị luận: Đưa ra những luận cứ để minh chứng cho nếp sống thanh lịch của người Hà Nội
⇒ Làm cho bài viết có tính xác thực, có căn cứ rõ ràng, thuyết phục người đọc trong quá trình truyền thụ thông tin trong văn bản.
6. Ý nghĩa của văn bản
- Văn bản đã mang đến cho em những thông tin về văn hóa Hà Nội: về học vấn và lối sống thanh lịch của người dân Hà Nội.
- Nét tôi tâm đắc nhất về văn hóa Hà Nội được đề cập trong bài là: Nếp sống thanh lịch của người Hà Nội (người Hà Nội “tinh, sành, đánh giặc giỏi, tiêu biểu anh hùng dân tộc, làm việc “hiền tài, tiêu biểu tinh hoa quốc gia”)
→ Điều này cho thấy sự khác biệt chỉ có ở người Hà Nội mà không nơi nào có được.
- Một số nét đặc sắc trong văn hóa các dân tộc Tây Bắc:
- Văn hóa canh tác Tây Bắc: Những thửa ruộng bậc thang trùng điệp sườn núi, đáy vực thăm thẳm càng làm cho vùng đất này thêm đặc sắc.
- Văn hóa ẩm thực: Các món ăn ở đây thường được chế biến với nhiều hương vị, mùi vị khác nhau, trở thành đặc sản đối với bất kỳ du khách nào khi ghé thăm. Những món ăn độc đáo, lạ miệng phải kể đến như: tiết canh da trâu, chẩm chéo, cơm lam nấu trong ống nứa, rượu sâu chít hay các loại hoa quả đặc trưng…
- Trang phục truyền thống: Đối với người dân vùng Tây Bắc, trang phục của họ tuân theo truyền thống để tạo nên bản sắc riêng của dân tộc.
IV. Luyện tập
Cảm nhận về Thăng Long - Hà Nội xưa qua những thông tin trong bài thơ:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đó người đây luống đoạn trường!".
(Thăng Long hoài cổ- Huyện Thanh Quan)
Bài viết tham khảo
Có thể nói, kho tàng văn học Trung đại nước ta có nhiều tác phẩm văn học đặc sắc mang nhiều ảnh hưởng của lịch sử, sự xuất hiện của nhiều tác giả lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v. và đặc biệt người phụ nữ đã để lại chùm thơ Nôm được lưu giữ đến ngày nay là Bà Huyện Thanh Quan. Một trong những tác phẩm đậm chất lịch sử là trường ca Thăng Long thành hoài cổ. Đó là một thể thơ liền mạch, mở đầu bài thơ bằng hai câu, đi vào lòng người đọc một nỗi băn khoăn:
“Tạo hoa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương”
“Rạp hát” là nơi giải trí, trình diễn các vở tuồng mà các gia đình giàu có ngày xưa hay xem. Nó giống như lời tâm sự của tác giả, đặt ra câu hỏi rằng, cùng một cuộc đời, con người sinh ra đều giống nhau, vậy mà giữa các kiếp này lại có sự khác biệt lớn đến vậy. Cuộc đời mỗi người có thể dài, có thể ngắn, mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời đều giống như một vở kịch. Thời gian trôi qua và không chờ đợi bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Câu thơ như một tiếng thở phào nhẹ nhõm, vạn vật như báo trước sự đổi thay khi thời gian đã thấm vào vạn vật, con người và Hoàng thành Thăng Long cũng không ngoại lệ:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Hai câu thơ trên tuy đối lập nhưng cùng diễn tả kinh thành Thăng Long nghìn năm đã bị bào mòn bởi biết bao buổi hoàng hôn đã qua nơi đây. Nhớ ngày nào, Thủ đô lúc nào cũng nhộn nhịp, tươi vui, dòng người mua bán thỏa thích, tiếng cười nói, mua bán ồn ào vang vọng cả không gian. Tuy nhiên, giờ đây con đường nhộn nhịp chỉ còn “linh hồn của cỏ -hồn thu thảo””, mùi cỏ xanh và mùi rêu. Là mùi của dấu thời gian trên từng bức tường vàng cổ kính. Vì vậy, giữa mảnh đất kinh thành xưa chỉ còn lại bóng chiều tà trên mọi nẻo đường, hình ảnh này gợi cảm giác cô đơn, lặng lẽ, tiếc nuối, đau xót. Chính vì cuộc chiến hỗn loạn mà thành phố đã bị thay đổi, bị ảnh hưởng và không còn sôi động như trước. Bà Huyện Thanh Quan hiểu rất rõ hoàn cảnh này bởi bà là người con sinh ra và lớn lên ở kinh thành này, bà luôn trân trọng quá khứ của mình:
“Đã vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương”
Đó là hai bài thơ với biện pháp nhân hóa hướng đến những vật vô tri vô giác như đá, nước mà cũng gửi gắm nhiều tâm tư, tình cảm. Những từ ngữ “trơ gan”, “cau mặt” là ý nghĩ của người, ngấm ngầm phê phán triều Nguyễn lúc bấy giờ đều đang thương tiếc cho một kinh đô bị tàn phá. Mọi thứ không còn rộn ràng vui tươi mà nhuốm màu tang thương:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đó người đây luống đoạn trường”
Cảnh tượng này, khiến người dân ở đây hoang mang. Hai câu cuối của bài thơ bộc lộ rõ nỗi đau của tác giả trước sự đổi thay của kinh thành Thăng Long. Trải qua hàng nghìn năm, tòa thành đã là chứng nhân lịch sử cho quá trình hình thành và phát triển của đất nước, vậy mà tòa thành này giờ đây chỉ còn là hoang tàn, rêu phong khiến tác giả không thể kìm được cảm xúc. “Cảnh đó” là cảnh kinh thành Thăng Long, “người đây” là thi nhân, chắc phải có tình sâu nặng thi nhân mới mang trong lòng biết bao đau thương. Có thể nói bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ ” như một viên ngọc sáng trong các tác phẩm văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Đoạn thơ cho người đọc cảm nhận rõ nét những suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm của Bà Huyện Thanh Quan về hình ảnh kinh thành Thăng Long xưa.
Biên soạn: GV Nguyễn Duy Tuấn
SĐT: 0945 441181
Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419
Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM
Fanpage: https://www.fb.com/ttductri