Table of Contents
I. Kiến thức kiểu bài thuyết trình và thảo luận về một địa chỉ văn hóa
Định hướng
1. Khái niệm
Thuyết trình và thảo luận về một địa chỉ văn hoá là trình bày, trao đổi bằng lời nói và các phương tiện hỗ trợ khác (nếu có) về một lễ hội, phong tục, tập quán, di tích lịch sử, văn hoá,... ở một địa phương, dân tộc, quốc gia, thế giới. Qua đó, có thể cung cấp thông tin về địa chỉ văn hoá, quảng bá hoặc giáo dục ý thức bảo vệ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tăng cường hoạt động giao lưu, hội nhập quốc tế và tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá của nhân loại.
2. Yêu cầu
Xác định rõ mục đích của buổi thuyết trình.
Xác định rõ đối tượng nghe thuyết trình (Người nghe là ai, đã có hiểu biết gì về địa chỉ văn hoá đó chưa, bao nhiêu người tham dự?).
Xác định những thông tin quan trọng mà em mong muốn người nghe sẽ nắm bắt được về địa chỉ văn hoá ấy. Từ đó, nhấn mạnh những thông tin này trong lúc thuyết trình hoặc tìm kiếm các phương thức làm cho chúng trở nên nổi bật, gây ấn tượng với người nghe.
Tìm ý và lập dàn ý cho bài thuyết trình về địa chỉ văn hoá.
Xác định thời lượng, cách nói cho từng phần của bài thuyết trình vì người nghe thường không muốn nghe một bài nói quá dài cũng như nghe một giọng điệu lặp đi lặp lại.
Khi tiến hành thuyết trình về một địa chỉ văn hoá, ngoài những điểm cần chuẩn bị nêu trên, cần lưu ý thêm các chi tiết sau:
- Chọn trang phục phù hợp với vấn đề văn hoá được trình bày để tạo ấn tượng tốt đẹp đối với người nghe và giúp em tự tin hơn.
- Sử dụng các động tác hình thể khi thuyết trình: tư thế, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt,... một cách phù hợp và có hiệu quả.
II. Thực hành thuyết trình và thảo luận về một địa chỉ văn hóa
Vấn đề thuyết trình
Hãy thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê (Ninh Thuận).
1. Chuẩn bị
Xác định yêu cầu của đề: thuyết trình về lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ).
Xem lại văn bản thuyết minh về lễ hội Đền Hùng trong phần Thực hành đọc hiểu.
Tim đọc thêm các tài liệu khác về lễ hội Đền Hùng (sách, báo hoặc các bài viết trên trang Thông tin điện tử của Chính phủ; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ,..). Sưu tầm một số tranh, ảnh, video có liên quan.
2. Tìm ý và lập dàn ý
a. Tim ý
Tên địa chỉ văn hoá là gì, ở địa phương / vùng miền nào?
⇒ Khu di tích đền Hùng, xã Huy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
Mục đích và nội dung chính sẽ trình bày là gì?
⇒ Ý nghĩa lễ hội, thời gian tổ chức, quá trình diễn ra lễ hội cụ thể theo từng đền.
Đặc điểm của địa chỉ văn hoá đỏ thế nào?
⇒ Quy mô tổ chức, những nét văn hóa đặc sắc của đền Hùng, Phú Thọ.
Ý nghĩa của địa chỉ văn hoá đó đối với cuộc sống, con người là sao?
⇒ Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
b. Lập dàn ý
Phần mở đầu
Chào hỏi, giới thiệu
Giới thiệu khái quát về lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ và mục đích của bài thuyết trình. Ví dụ: Thông qua việc giới thiệu những nét đặc sắc của lễ hội Đền Hùng, mọi người hiểu rõ về văn hoá, tín ngưỡng, đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, từ đó, cũng góp phần gin giữ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc (mục đích).
Phần nội dung chính
Trình bày cụ thể các đặc điểm của lễ hội Đền Hùng, chẳng hạn: Tên gọi: thời gian, không gian tổ chức; phần lễ phần hội, ... Có thể đan cài các cảm nhận, đánh giá riêng của bản thân theo từng phần.
Trình bày ý nghĩa của lễ hội Đền Hùng đối với cuộc sống, con người. Ví dụ: Qua lễ hội Đền Hùng, người dân Việt Nam thể hiện sự tri ân đối với tổ tiên, các bậc tiền bối đã có công tạo dựng và bảo vệ cuộc sống cho họ. Đây cũng là khoảng thời gian toàn dân cảm tạ thành kính đến công ơn của mười tám đời vua Hùng và cùng nhau tận hưởng những giây phút bình an, hạnh phúc.
Phần kết thúc
Khẳng định lại giá trị văn hoá chủ yếu của lễ hội Đền Hùng (giá trị về vật chất, tinh thần) đối với dân tộc Việt Nam.
Cảm ơn, mong muốn góp ý…
3. Thực hành nói và nghe
Yêu cầu:
Người nói | Người nghe |
- Giới thiệu bài thuyết trình theo dàn ý đã chuẩn bị. - Nói rõ ràng, âm lượng phù hợp; tránh đọc bài viết đã chuẩn bị sẵn; kết hợp ngôn ngữ nói và cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ: sử dụng hình ảnh, sơ đồ minh hoạ (nếu cần): đảm bảo thời gian quy định. - Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung với hình thức, các phương tiện hỗ trợ thuyết trình phù hợp. Chú ý cách diễn đạt tạo sự hấp dẫn về vấn đề thảo luận, …. - Trả lời các câu hỏi của người nghe (nếu có). | - Lắng nghe, xác định và ghi lại các thông tin chính của bài thuyết trình, những nội dung cần hỏi lại.
- Thể hiện thái độ chủ ý lắng nghe, sử dụng các yếu tố cử chỉ, nét mặt, ánh mắt để khích lệ người nói.
- Hỏi lại những điểm chưa rõ (nếu cần); có thể trao đổi thêm quan điểm cá nhân về nội dung của bài thuyết trình. |
Bài nói tham khảo
THUYẾT TRÌNH VỀ LỄ HỘI ĐỀN HÙNG
Truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn đời nay và trở thành đạo lý, lẽ sống của muôn dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, nhưng dù ở đời nào, ở triều đại nào, dân tộc ta cũng không bao giờ quên tổ chức Lễ hội Đền Hùng. Là ngày lễ lớn của dân tộc để tưởng nhớ các vua Hùng có công dựng nước.
Như vậy, phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hóa lâu đời ở nước ta. Đó là ngày lễ của cả nước, của toàn dân và trong tâm thức của người Việt Nam đó là ngày lễ thiêng liêng nhất. Chính vì vậy lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với phần lễ lớn mang tầm cỡ quốc gia, với cuộc hành hương 'về với cội nguồn dân tộc' của hàng vạn người từ khắp mọi miền đất nước và kiều bào ta' ở nước ngoài. Khu di tích Đền Hùng là một quần thể kiến trúc nguy nga tráng lệ trên núi Nghĩa Lĩnh, tức núi Hùng, thuộc xã Huy Cường, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Đầu tiên, những ngôi đền này đều làm bằng đá để thờ thần núi và các vua Hùng. Và từ đó đến nay, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, qua các triều đại, ngôi chùa đã được nhân dân địa phương chăm chút, tu bổ, tôn tạo hoặc xây dựng để chống chọi với sự khắc nghiệt của thời gian và do chiến tranh tàn phá.
Để có được những ngôi chùa với diện mạo khang trang như ngày nay là cả một kỳ tích và công sức gìn giữ của các thế hệ con cháu. Từ lâu những di tích này đã trở thành di sản văn hóa, bảo tàng lịch sử quý giá của dân tộc ta. Mỗi công trình kiến trúc của Khu di tích Đền Hùng đều chứa đựng nội dung huyền thoại xen lẫn hiện thực, đi theo dòng chảy lịch sử, khiến người đi trẩy hội hôm nay muốn nhìn quá khứ và hiện tại đan xen. Khí thiêng sông núi dường như càng làm cho bữa tiệc thêm rạng rỡ. Từ Đại Tiền Môn (Đại Môn) dưới chân núi, bức đại tự phía trên mang dòng chữ “Cao Sơn Cảnh Hàng” (Núi Cao Đường Lớn) hân hoan chào đón mọi người.
Vượt qua 225 khối xi măng, khách đến đền Hạ, nơi nàng Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai. Đây có thể là câu chuyện cội nguồn của những người Việt Nam cùng sinh ra đời. Vì vậy, trong ngôn ngữ của chúng ta, người ta vẫn dùng hai từ “đồng bào” (cùng một cái bọc) cho đến ngày nay. Khi Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, Lạc Long Quân dẫn 50 người qua lại, còn Âu Cơ dẫn 49 người con ngược xuôi, để con trưởng làm vua, xưng là Hùng Vương, định cư ở Phong Châu .
Vượt qua 168 bậc thang để đến Đền Trung. Tương truyền, Đền Trung là nơi các vua Hùng từng họp bàn việc nước với các quan trong triều. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi thoải mái của các vua Hùng và các tướng lĩnh sau những chuyến đi săn dài ngày. Địa danh Đền Trung còn gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” và cuộc thi tìm người nối ngôi của Vua Hùng thứ 6. Lang Liêu là con út, vì lòng hiếu thảo nên làm hai loại bánh từ gạo nếp thơm là bánh chưng và bánh dày. Đi thêm 102 bậc thang nữa là đến Đền Thượng. Tương truyền vào thời các vua Hùng trị vì, các vua Hùng thường cùng các tướng soái hay tế trời trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, để cầu trời phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, ấm no hạnh phúc. mọi người .
Cũng tại khu vực Đền Thượng, Vua Hùng thứ 6 đã dựng đàn tế Thánh Gióng để tưởng nhớ người anh hùng của làng Phù Đổng. Và chuyện Thục Phán dựng hai cột đá thề, khi Hùng Vương thứ 18 thoái vị và hứa nối nghiệp các vua Hùng. Bên cạnh chùa có một ngôi mộ cổ nhỏ gọi là Mộ Tổ. Đây là ngôi mộ của Hùng Vương thứ 6, người dân thường dựa vào lời căn dặn của vua khi ông qua đời: “Hãy chôn ta trên núi Cả, để ta đứng trên núi cao mà còn có thể trấn giữ bờ cõi cho con cháu muôn đời” ". Từ chùa trên nhìn về phía trước, du khách chiêm ngưỡng 99 ngọn núi lớn nhỏ, hình tượng đàn voi quỳ lạy núi mẹ - Nghĩa Lĩnh - uy nghiêm - chỉ một mình quay lưng, "sống trong thân tình", lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. luôn luôn bị tách khỏi đàn, từ nguồn. Bài học bằng đá cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhắc nhở hậu thế về đạo hiếu ở đời.
Xuôi về đền Hạ, về phía đông nam là đền Giếng. Tương truyền vào đời các vua Hùng thứ 18, có hai công chúa tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa theo vua cha đến đây du ngoạn, thường đến chiếc giếng trong vắt và kín đáo này để soi mình trong gương và chải lông. tóc. Hai công chúa đều là người đẹp, người đẹp có công dạy dân biết trồng lúa, trồng dâu, nuôi tằm, phát triển công thương nghiệp, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, dân chúng trăm họ. Vì vậy, để tưởng nhớ hai công chúa, nhân dân đã xây dựng đền Giếng để thờ phụng. Lễ hội Đền Hùng là dịp Giỗ Tổ thiêng liêng. Bởi trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam đều tự hào là dòng dõi Lạc Hồng, là con Rồng cháu Tiên. Để rồi, cứ mỗi độ xuân về, người Việt lại hành hương về đất Tổ để tưởng nhớ công lao to lớn trong công cuộc mở nước và dựng nước, khai sáng nền văn hiến Việt Hồ và lập nên nước Văn Lang xưa.
Lễ hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến 11 tháng 3 âm lịch, mùng 10 là chính hội. Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, Lễ hội Đền Hùng gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần tế lễ được tổ chức rất long trọng đúng với quốc lễ. Lễ vật là “tam sinh” (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi màu, nhạc cụ là chiếc trống đồng cổ. Sau tiếng trống đồng vang lên, các vị chức sắc tiến vào lễ đường dưới sự điều hành của chủ tế. Sau đó đến các già làng xung quanh Đền Hùng để thờ cúng. Cuối cùng, nhân dân và du khách thập phương hành hương về lễ chùa, tưởng nhớ các vua Hùng. Sau buổi lễ là bữa tiệc. Tại lễ hội Đền Hùng hàng năm, cuộc thi rước kiệu từ các làng xung quanh được tổ chức. Với sự xuất hiện của những đoàn rước lớn, không khí lễ hội càng thêm tưng bừng. Xe rước của làng phải tập kết vài ngày trước cuộc thi. Nếu kiệu đoạt giải nhất trong cuộc thi năm nay, lễ hội năm sau có thể cử các kiệu còn lại rước lên thượng điện để triều đình cử hành quốc lễ. Bởi vậy, kiệu nào đạt giải nhất là niềm tự hào, vinh dự lớn của dân làng. Bởi họ tin rằng các vua Hùng và các vị thần linh đã phù hộ cho họ gặp nhiều may mắn, tài lộc, thịnh vượng...
Tuy nhiên, để có được những chiếc kiệu đẹp và lộng lẫy thì cần phải chuẩn bị từ trước rất chu đáo và cẩn thận. Những khó khăn vất vả của dân làng đã khích lệ họ vượt lên chính mình để vươn tới sự cao cả thiêng liêng và hướng về tổ tiên. Đó là đời sống tinh thần của người dân, được thể hiện rõ nét thông qua một loại hình sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian truyền thống, là một bộ phận của vận mệnh cộng đồng sâu sắc. Sinh hoạt dân gian này đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của cộng đồng làng xã cư trú quanh Đền Hùng. Mỗi cuộc rước kiệu có 3 kiệu đi chung. Được sơn son thếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Việc trang trí kiệu cũng rất nghệ thuật và đẹp mắt. Kiệu thứ nhất bày hương hoa, hương trầm, trầu cau, chén nước và bình bát. Kiệu thứ hai có hương án, bài vị Thánh, lọng, quạt nhiều màu sắc, trang trí trang trọng.
Lễ rước bánh chưng, bánh dày lần thứ ba, một thủ lợn luộc để nguyên, theo sau ba cỗ kiệu này là các quan trong làng và các bô lão. Chức sắc mặc áo thụng theo kiểu quan triều đình, còn những người lớn tuổi cũng mặc áo thụng đỏ hoặc mặc quần trắng, áo the, chít khăn xếp trên đầu.
Trong lễ hội đền Hùng, vào ngày giỗ Tổ có tổ chức lễ cúng (tục gọi là hát Xoan). Đó là một buổi lễ rất quan trọng và độc đáo. Theo dân gian, hát Xoan xưa gọi là hát Xuân, múa Hát Xoan có từ thời các vua Hùng và được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân các làng xung quanh. Điệu múa Hát Xoan này được nhiều người yêu thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ vua Lý Thần Tông. Bà cảm nhận được làn điệu dân ca đặc sắc, độc đáo nên đã sưu tầm, cải biên thành hát thờ ở một số đền, đình thờ các vua Hùng.
Trong chùa Hạ có ca trù (gọi là Nhã Tổ ca, là ca dao). Đó cũng là loại hát thờ trước cửa đình trong ngày hội làng, do gánh hát Đô Nghĩa thực hiện. Ngoài sân đền Hạ, ở một nơi thoáng đãng, có một chiếc đu tiên. Mỗi bàn đu có hai tiên nữ (thiếu nữ Mường xinh đẹp) ngồi. Cú đu có thể thực hiện được vì các cô gái thay phiên nhau chạm đất bằng chân. Đu quay là một trò chơi nhịp nhàng đẹp mắt dành cho nữ giới.
Xung quanh khu vực chân núi Hùng là các trò diễn xướng, trò chơi dân gian truyền thống được tổ chức rất sôi nổi và thu hút đông đảo người dân như trò ném nón, bập bênh, đấu vật, chọi gậy… chọi gà… Cờ người và tổ điếm được người già yêu thích. Còn những nhóm trai gái tụ tập từng tốp năm, tốp ba trên những ngọn đồi này thì trổ tài hát ví, hát trống quân, hát giao duyên... Buổi tối có tổ chức hát chèo. , tụng kinh trong khoảng sân rộng thênh thang ngay cổng vào Đền Hạ hay Đền Giếng… Không khí lễ hội vừa trang nghiêm, náo nức, vừa náo nức, phấn khởi đã làm xúc động lòng biết bao người đến dự hội.
Lễ hội Đền Hùng là một phong tục đẹp trong truyền thống của người Việt Nam. Và từ lâu trong tâm thức dân gian, đất tổ đã trở thành “thánh địa thiêng liêng” của cả nước, nơi cội nguồn của dân tộc.
Trải qua nhiều thời đại lịch sử, tuy có lúc hưng, lúc suy nhưng Lễ hội Đền Hùng vẫn diễn ra. Điều đó đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hóa rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Những người hành hương về đất Tổ không phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong thâm tâm họ đều có quyền tự hào là con cháu Vua Hùng muôn đời. Vì vậy, bất cứ ai là người Việt Nam, nếu có lòng thành và mong muốn được hành hương về đất tổ, chỉ cần một mình là có thể thực hiện được ước nguyện này một cách dễ dàng và thuận tiện.
Lễ hội Đền Hùng hay Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, biểu dương nòi giống phồn thịnh, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người về trẩy hội mang theo lòng ngưỡng mộ quê hương đất Tổ, một niềm tin đã ăn sâu vào tâm trí người Việt Nam dù họ sinh sống ở đâu.
4. Kiểm tra và chỉnh sửa Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 37 tập 1 Ngữ Văn 10 CD)
Biên soạn: GV Nguyễn Duy Tuấn
SĐT: 0945 441181
Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419
Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM
Fanpage: https://www.fb.com/ttductri