Picture of the author
Picture of the author
SGK KNTT Ngữ Văn 10»Bài 5: Tích Trò Sân Khấu Dân Gian»Bài 3: Huyện Đường

Bài 3: Huyện Đường

Lý thuyết bài Huyện Đường môn Văn 10 bộ sách KNTT bao gồm bố cục, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, nghệ thuật và tóm tắt nội dung một cách đầy đủ, dễ hiểu.

Xem thêm

huyen-duong

I. Chuẩn bị trước khi đọc

Câu 1. Bạn đã xem biểu diễn tuồng bao giờ chưa? Bạn nghĩ sao khi loại nghệ thuật sân khấu truyền thống này đang gặp khó khăn trên con đường đến với khán giả hiện đại?

Gợi ý.

Tôi đã xem kịch trên sân khấu. Loại hình nghệ thuật này gặp khó khăn trong việc tiếp cận khán giả hiện đại vì nó khá lỗi thời và nội dung khá cũ, không phù hợp với đại đa số khán giả. Trong khi đó, có nhiều loại hình giải trí khác ra đời như phim ảnh, nhạc Kpop hấp dẫn, hiện đại và dễ theo dõi hơn.

Câu 2. Hãy tìm xem trên Internet toàn bộ hoặc từng trích đoạn của vở tuồng này

Các em tìm xem trên internet. Theo đường link :

https://www.youtube.com/watch?v=-cA8e0zaBoY

II. Trải nghiệm cùng văn bản

1. Đọc văn bản

2. Trả lời câu hỏi phân đọc hiểu

Câu 1. Cách bài trí nơi huyện đường – những chỉ dẫn cho việc thiết kế sân khấu

Gợi ý.

Những chi tiết cho thấy cách bài trí nơi huyện đường là:

  • Trên tường chính giữa là bức hoành phi đề hai chữ “huyện đường”, hai bên hai câu đối, bên cạnh câu đối là cửa vào nhà trong.
  • Bàn giấy của tri huyện để chính giữa, trên có ống bút, nghiên mực, điếu bình.
  • Bàn của đề lại cũng có nghiên bút và một chồng đơn từ.

Câu 2. Lưu ý cách tự giới thiệu của nhân vật trong tuồng

Gợi ý.

Cách giới thiệu của nhân vật có phần hơi khoa trương, thị uy và hống hách khi tự giới thiệu chức vụ, vị trí của mình cùng những đặc điểm khác,

Câu 3. Chú ý sự hể hả, trắng trợn của tri huyện khi tự “thưởng thức” những mưu mô của mình

Gợi ý.

Sự thỏa mãn và vui vẻ cũng như lòng tham và thói xấu của tri huyện khi muốn lũng đoạn, đục khoét tiền của dân chúng trong việc hắn đưa ra âm mưu muốn moi tiền từ Sò đã “cười khoái trá”

Câu 4. Hoạt động “ăn ý” giữa tri huyện và đề lại

Gợi ý.

Bản chất tham lam của bọn Đề lại, đều là những kẻ muốn đục khoét tiền của người khác chứ không hề có ý định xử kiện công bằng thông qua việc hắn  đưa ra ý kiến phải xử cả Sò và Hến khi tri huyện muốn moi tiền từ Sò, xử Nghêu và Ốc.

Câu 5. Điều gì sẽ xảy ra sau lời nói này của lính lệ A?

Gợi ý.

Theo em, sau câu nói của lính lệ A, ông Trùm Sò và thị Hến sẽ đút lót tiền cho hắn và cùng nhau vào huyện đường để mong được tri huyện xử kiện.

3. Tìm hiểu chung văn bản: Huyện đường

a. Thể loại: Tuồng

b. Xuất xứ:

Đoạn trích thuộc vở tuồng “Nghêu, sò, ốc hến”

c.Tóm tắt nội dung:

Ốc là một tên ăn trộm. Hắn nhờ thầy bói Nghêu (hay Ngao) gieo quẻ chỉ vào việc cướp nhà Trùm Sò. Số đồ Ốc ăn cắp được đem bán cho Thị Hến, một góa phụ trẻ đẹp. Lý trưởng và Trùm Sò đến thu giữ tang vật, bắt ngay Thị Hến về trình quan huyện. Khi mới ra công đường, Thị Hến đã mê hoặc các quan lại bằng vẻ đẹp của mình. Kết quả là Trùm Sò  mất tiền, ông Lý bị đánh và Thị Hến được trắng án. Kết thúc vở kịch là cảnh quan huyện, thầy đề , ông Lý vì bị Thị Hến mê hoặc nên chạm mặt nhau và bị các bà vợ đánh ghen tại nhà Thị Hến.

⇒ Mang tính châm biếm, đả kích quan lại địa phương.

d. Phân biệt Tuồng và Chèo.

Tuồng – xuất phát từ sinh hoạt ca vũ của người Việt.

Chèo – xuất phát từ cách tích truyện kể.

e. Bố cục

Phần 1: Tri huyện xưng danh – Lời giới thiệu của tri huyện (từ “Quyền trọng” đến “chuyên cần”).

Phần 2: Thủ đoạn của quan huyện và đề lại (tiếp đó đến “Lệ đâu?”).

Phần 3: Lính lệ bắt đầu thực thi kế hoạch của “quan” (đoạn còn lại).

f. Tóm tắt các sự việc chính

Tri huyện bước ra đầu tiên, tự xưng tên tuổi, chức vụ và kinh nghiệm của mình.

Đề lại theo hầu phía sau, hỏi thăm và thưa với tri huyện về vụ án của Thị Hến.

Sau một hồi bàn bạc, tri huyện và đề lại đưa ra phương án xử tù, phạt đòn và phạt tiền đối với Ốc, Nghêu và lí trưởng còn Sò và Hến thì đợi xem xét.

Lính lệ ra gọi cả bên nguyên, bên bị, nhân chứng vào hầu.

III. Suy ngẫm và phản hồi

1. Bản chất của tri huyện

Lời giới thiệu đã vạch trần bộ mặt xấu xa của quan huyện:

  • Là một kẻ thuộc loại “ăn trên ngồi trốc”, hưởng đủ mùi phú quý và quen sống phóng đãng “Đỉnh chung đà đủ miếng/ Hoa nguyệt cũng quen mùi”.
  • Thực hiện chức phận một cách tồi tệ, cây quyền cậy thế để tự tung tự tác, bất chấp công lí, đạo lí, miễn sao vơ vét được nhiều.
    • Lấy của cậy ngọn roi/ Làm quan nhờ lỗ khẩu/ Sự lí thường phân ẩu/ Được thua tự đồng tiền/ Dân xã nếu không kiêng/ Bỏ xuống lao giam kĩ”.
    • Quan chức nghĩ nên thú vị/ Vào ra cũng phải chuyên cần”.

⇒ Hai từ “thú vị”“chuyên cần” cho thấy tri huyện đã hài lòng biết bao với cuộc sống của mình. Ông ta càng “chuyên cần” thì dân đen càng khốn đốn.

∗ Nhận xét:

Hình ảnh quan huyện hiện lên qua giọng điều đầy châm biếm, sâu cay. Theo cách nhìn của tác giả dân gian, trong xã hội xưa, đây là đặc điểm chung của tầng lớp thống trị chứ không phải đặc điểm của một nhân vật cá biệt nào.

⇒ Liên hệ thực tế: Thông thường, trong đời sống, khi tự giới thiệu, không ai muốn nói ra những cái xấu của bản thân. Nhưng ở đây, nhân vật tri huyện đã làm được điều đó. Rõ ràng, lời thoại không phải là ngôn ngữ tự nhiên của nhân vật, mà là ngôn ngữ nghệ thuật, đảm nhận các chức năng vừa thể hiện hành động theo trò chơi đã xác định, vừa định hướng tư tưởng, tình cảm của công chúng, độc giả một cách rất trực tiếp. điều đang xảy ra.

2. Thủ đoạn của quan huyện và đề lại

Những lời thoại chính của tri huyện cần được kể đến: “Sự lí thường phân ẩu/ Được thua tự đồng tiền”; “Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được”; “Phải, nắm đứa có tóc ai nắm kẻ trọc đầu”; “...lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được”.

Những lời thoại của đề lại: “Vâng, ta cứ bảo là để tra cứu đã. Thưa còn thằng Ốc, thằng Nghêu, lí trưởng, Thị Hến thì liệu xử cho xong, bọn này toàn đầu trọc cả”; “Bẩm quan xử thật sâu sắc”; “Vâng ạ, quan xử hay lắm”.

Lời thoại của lính lệ: “Nhắc lại ông Trùm, anh xã và chị Hến biết rằng hôm nay quan bận lắm, tôi bẩm mãi quan mới chịu xử vụ này đấy”. Tất cả những lời thoại nêu trên cho thấy mọi mối bận tâm của tri huyện, đề lại và lính lệ đều chỉ xoay quanh một chữ “tiền”.

⇒ Tác giả dân gian đã xây dựng được hệ thống lời thoại hết sức tinh tế, hàm súc. Trong mỗi lời nhân vật thốt ra dường như có sẵn một mũi dao chĩa ngược về chính người nói.

⇒ Đồng thời,  có sự hô ứng nhịp nhàng trong lời thoại giữa hai nhân vật tri huyện và đề lại:

  • Khi tri huyện nói muốn để trường hợp của Sò lại vì nó rất giàu, đề lại đã đưa ra phương án để nói với mọi người là “ta cứ bảo là để tra cứu đã”
  • Đề lại nói muốn xử cho xong những bọn trọc đầu, tri huyện lập tức hưởng ứng “phải, nắm đứa có tóc ai nắm kẻ trọc đầu”
  • Đề lại khen ngợi, tâng bốc, nịnh nọt với cách xử kiện của tri huyện “bẩm quan xử thật sâu sắc”, “vâng ạ, quan xử hay lắm”

⇒ Dựa vào cách nói chuyện có thể thấy hành vi xấu xa này của chúng đã xảy ra thường xuyên và lặp lại nhiều lần nên được phối hợp và diễn ra rất trơn tru.

⇒ Bởi lẽ: Hai nhân vật này có sự tương đồng về bản chất tham lam, xấu xa sách nhiểu, lại có quá trình cấu kết với nhau lâu dài trong việc tróc nã, chiếm đoạt tiền bạc từ người thưa kiện.

(Tri huyện vừa phàn nàn về nỗi “Nha lại vắng bẩm thân,/ Dân xã không đấu cáo” thì đề lại xác nhận ngay: “Vâng, hôm nay chả thấy ai kiện cáo gì cả”. Rõ ràng các quan chỉ mong có chuyện kiện cáo để kiếm chác. Nói chung, mỗi lời tri huyện nói ra đều được đáp lại bằng tiếng “Vâng” và ngược lại, lời thưa của đề lại có thể nhanh chóng được xác nhận bằng tiếng “Phải”.)

∗ Nhận xét:

- Tri huyện và đối tượng không cần để ý đến nhau vì họ đều là những người cùng bản chất tham lam và ác độc, chuyên dùng quyền lực để sách nhiễu, nhân dân 

- Căn cứ vào cách nói của họ, có thể thấy hành vi xấu xa này của họ đã diễn ra thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần nên rất phối hợp ăn ý.

- Khi tri huyện nói muốn để trường hợp Sò lại  vì hắn quá giàu. Thầy đề đã đề xuất một phương án “ta cứ bảo là để tra cứu đã”. 

- Thầy Đề ca ngợi, tâng bốc cách xử lý của tri huyện “bẩm quan xử thật sâu sắc”, “vâng ạ, quan xử hay lắm”

3. Sự tương đồng về bản chất, thủ đoạn giữa các nhân vật ở huyện đường.

Tri huyện

Đề lại

Lính lệ

- Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được

- Phải nắm đứa có tóc ai nắm kẻ troc đầu. (cười khoái trá). Xử Ốc năm năm tù, Nghêu phạt đòn năm chục trượng, lí trưởng đòi ăn lót cần phạt trừn giới năm mươi quan tiền.

- Ăn thua là những chỗ khó đấy đấy, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được. Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò.

- Ta cứ để tra cứu đã. Thưa còn thằng Ốc, thằng Nghêu, lí trưởng, thị Hến thì liệu xử cho xong, bọn này toàn đầu trọc cả.

- Bẩm quan xử thật sâu sắc, nhưng đã xử Nghêu và Ốc rồi thì lấy gì mà không xử Sò với Hến được.

- Nhắc lại ông Trùm, anh xã và chị Hến biết rằng hôm nay quan bận lắm, tôi lẩm bẩm mãi quan mưới chịu xử vụ này đấy.

4. Thái độ và cách nhìn nhận của người dân xưa đối với chốn “cửa quan”

Người xưa vừa sợ vừa thương nơi “cửa quan”. Họ là những người dân thấp cổ bé họng nên không biết dựa vào đâu, chỉ biết tìm đến cổng thông tin để kêu oan, nhưng bản thân họ lại không biết rằng cổng thông tin đó chưa hẳn đã là nơi để họ giúp mang lại công lý. Lời nói của Lí Trưởng và Trùm Sò bị lính thách thức đầy vẻ khiêm tốn: “Vâng, tôi biết anh tử tế lắm, chúng ta với nhau rồi”; “Vâng, tôi xin hậu tạ, anh cứ giúp đỡ cho”.

 IV. Đọc kết nối với viết

Viết đoạn văn khoảng 150 chữ trình bày suy nghĩ về tiếng cười châm biếm của tác giả dân gian thể hiện qua đoạn trích

Đoạn văn tham khảo

Đoạn trích Huyện Đường thể hiện cảnh quan lại trong huyện bàn nhau tìm cách sách nhiễu dân oan. Qua lời tri huyện, cho ta thấy thủ đoạn, dối trá khi nghĩ đến việc kiếm tiền từ bọn chúng một cách công khai ý đồ với đối tượng mà không để bụng. Tên lính lại bên cạnh tri huyện cũng gây tò mò không kém khi “tung hứng” với tri huyện một cách hài hoà như được luyện tập từ lâu, hay do làm quen mà thành, để đạt được mục đích, thậm chí còn khen cách xử án của tri huyện là “quan xử hay lắm” dù thực chất cả hai chẳng làm gì cả, mà chỉ nhìn vào lợi ích. Không dừng lại ở tri huyện, ngay cả đám lính lệ bên dưới cũng lên mặt, cũng ngang nhiên nói láo để moi tiền của dân. Tiếng cười mỉa mai vang lên trong không gian trang nghiêm của dinh thự. Sự đối lập giữa lời nói và hành động của các nhân vật nơi công cộng đã tạo nên tình huống trớ trêu trong đoạn trích

V. Vận dụng, liên hệ

1. Lời tự giới thiệu (qua hình thức nói lối) của nhân vật tri huyện đã giúp người xem, người đọc hiểu được điều gì về con người ông ta? Hãy so sánh lời tự giới thiệu đó của một nhân vật cụ thể trong tuồng với những lời tự giới thiệu thường gặp trong đời sống để rút ra nhận xét cần thiết.

Gợi ý.

- Trong lời giới thiệu, tri huyện nói mình là tri huyện - người có địa vị cao, có uy tín trong bộ máy quan lại, có nhiều ưu điểm, bề dày kinh nghiệm, có kinh nghiệm làm quan, xử kiện “thắng thua là ở đồng tiền”, nếu người dân không sợ, sẽ bị giam bắt giam, bắt đi tù.

- Lời giới thiệu này cho thấy hắn là một tên quan tham nhũng, thiếu liêm chính, quen dùng chức quyền để nhận hối lộ, hối lộ của nhân dân. Bên cạnh đó, hắn còn là tên hoá sắc, ngu dốt và vô ích. 

- Phần giới thiệu của tri huyện sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, cách nói ẩn dụ, ngoài mục đích tự giới thiệu còn nhằm phô trương quyền lực của mình với thiên hạ. 

=> Phần mở đầu thường gặp trong đời sống tự nhiên và dễ hiểu, dễ nhớ, dễ dùng hơn từ ngữ thông thường so với phần mở đầu của tuồng.

2. Nếu được tham gia dựng lại cảnh Huyện đường trên sân khấu, bạn sẽ lưu ý điều gì về diễn xuất của diễn viên? Vì sao

Theo em, đối với vở tuồng Huyện đường, diễn viên nên lưu ý một số điểm sau về diễn xuất:

- Hành động, cử chỉ, bước đi, động tác phải mạnh mẽ, rõ ràng, dứt khoát 

- Động tác và lời nói, sắc thái biểu cảm phải hài hòa với các yếu tố khác như trống, kèn, nhạc

- Đối với vai tri huyện, tiếng cười nên diễn tự nhiên, tươi vui, bộc lộ bản chất đồi bại của nhân vật. 

- Vai trò bị đảo ngược, lính phải nói nhẹ nhàng, mắt cụp xuống, cười ranh mãnh

3. Đánh giá thái độ và cách nhìn nhận của người dân xưa đối với chốn “cửa quan”

Gợi ý.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”. Chính câu tục ngữ này đã thể hiện sự đánh giá chung về  tầng lớp quan lại xưa hướng về nơi công quyền hay nơi “cửa quan”. Rõ ràng, đây là một đánh giá tiêu cực, chứa đựng sự mỉa mai, khinh thường, đả kích. Những điều thể hiện trong phần trình diễn của Tuồng Huyện đường khá phù hợp với đánh giá này. Nhìn chung, người xưa xem cảm thấy ở “cửa quan” chỉ là một nơi ô uế, đầy rẫy những tên đồ tể đầy mưu mô, luôn tìm cơ hội để “làm đầy túi tham”, hãm hại những kẻ “thấp cổ bé họng” , kể cả kẻ xấu nhưng ở thế yếu hơn (như lí trưởng, Trùm Sò). Phải hiểu rõ đây là quan điểm lịch sử, khắc phục quan điểm đó phải gắn với thay đổi cơ bản về thể chế. Hiện nay định kiến ​​còn tồn đọng này đã dần bị xóa bỏ khi xã hội ngày càng phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ, công bằng.


Biên soạn: GV Nguyễn Duy Tuấn

SĐT: 0945 441181

Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419

Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM

Fanpage: https://www.fb.com/ttductri

Tác giả: Nguyễn Duy Tuấn

Bài 2: Xúy Vân Giả Dại
Bài 4: Múa Rối Nước Hiện Đại Soi Bóng Tiền Nhân