Picture of the author
Picture of the author
SGK KNTT Ngữ Văn 10»Bài 7: Quyền Năng Của Người Kể Chuyện»Bài 4: Một Chuyện Đùa Nho Nhỏ

Bài 4: Một Chuyện Đùa Nho Nhỏ

Lý thuyết bài Một Chuyện Đùa Nho Nhỏ môn Văn 10 bộ sách KNTT bao gồm bố cục, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, nghệ thuật và tóm tắt nội dung một cách đầy đủ, dễ hiểu.

Xem thêm

I. Chuẩn bị trước khi đọc

1. Chuẩn bị

Câu 1. Đôi khi hồi ức về một kỉ niệm nhỏ bé trong quá khứ lại khiến ta phải suy ngẫm nhiều về cuộc sống của mình trong hiện tại và tương lai. Hãy kể lại kỉ niệm ấy với bạn bè.

Gợi ý.

- Trẻ nhớ và kể cho bạn bè nghe những kỷ niệm nhỏ khiến trẻ suy nghĩ nhiều về cuộc sống hiện tại và tương lai.

- Đó có thể là kỉ niệm liên quan đến sở thích, liên quan đến gia đình, người thân,… 

Ví dụ. Khi tôi còn nhỏ, ông gọi tôi về nhà ăn cơm. Nhà tôi cách ba giờ đi ô tô, tôi mải chơi nên anh đợi lâu. Đêm đó anh quạt cho tôi ngủ. Anh ấy nói, tôi năm nay đã bảy mươi tuổi, nếu bạn mỗi tháng đến thăm tôi một lần, tôi sẽ gặp bạn mười hai lần một năm, nếu tôi sống thêm mười năm nữa, tôi sẽ gặp bạn nhiều hơn một trăm lần. Sau này lớn lên, mỗi khi nghĩ đến ông, tôi lại ước ngày đó mình được đến thăm ông thường xuyên hơn.

2. Tác giả, tác phẩm

2.1 Tác giả: An – tôn Sê – khốp

An – tôn Sê – khốp (1860 – 1904) sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ tại thị trấn Ta – gan – rốc, miền Nam nước Nga. Ông bắt đầu sáng tác truyện ngắn và kịch ngay khi theo học ngành Y tại Trường Đại học Tổng hợp Mát – xcơ – va từ năm 1879. Đến khoảng những năm 1890, Sê – khốp đã được thừa nhận là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Nga.

Năm 1904 ông qua đời vì bệnh lao phổi ở một khu điều dưỡng tại nước Đức.

Văn phong của ông hàm xúc, cô đọng. Phần lớn truyện ngắn của ông là những “truyện không có truyện” 

2.2 Tác phẩm: Một chuyện đùa nho nhỏ

Thể loại: Truyện ngắn 

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

Truyện ngắn Một truyện đùa nhỏ của Sê – khốp in lần đầu trên tạp chí Dế Mèn của Nga, số 10, ra ngày 12/3/1886. Năm 1899, Sê – khốp chỉnh li, bổ sung câu chữ, thay đổi phần kết truyện để đưa vào tuyển tập Truyện ngắn Sê – khốp. Dịch giả Phan Hồng Giang chuyển ngữ Một chuyện đùa nho nhỏ từ bản tiếng Nga thuộc tuyển tập này.

II. Trải nghiệm cùng văn bản

1. Đọc văn bản

2. Trả lời câu hỏi phần đọc hiểu văn bản

Câu 1. Lưu ý về ngôi kể. Lời kể xuất phát chủ yếu từ điểm nhìn “lúc đó” hay “bây giờ”?

Gợi ý.

Ngôi kể là ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi”.

Lời kể xuất phát chủ yếu từ điểm nhìn “lúc đó”, tại thời điểm khi mà nhân vật “tôi” bắt đầu trò đùa của mình, nói “tôi yêu em” với Na-đi-a mỗi khi đi trượt tuyết.

Câu 2. Lưu ý sự đồng cảm của người kể chuyện với Na-đi-a.

Gợi ý.

Người kể đồng cảm với Nadia về nỗi sợ hãi của cô khi nói đến trượt tuyết, nỗi sợ độ cao khi đứng trên đồi nhìn xuống giống như nhìn xuống vực thẳm vô tận. Đó là một cảm giác kinh khủng, sợ cảm giác bị lao xuống dốc không phanh.

Câu 3. Lưu ý câu văn hé lộ ý đùa cợt của nhân vật “tôi”.

Gợi ý.

Câu văn hé lộ ý đùa cợt của nhân vật “tôi” là câu “Ôi gương mặt đáng yêu của nàng mới ngộ nghĩnh làm sao!”. 

Câu 4. Vì sao Na-đi-a “không muốn tin rằng gió đã nói điều ấy”.

Gợi ý.

  Nadiah “không muốn tin gió nói” vì gió không nói được, không nói được những điều như vậy và cô không biết ai đang nói nhưng trong đầu cô nghĩ “mình” đã nói và mình không muốn tin gió nói thế.

Câu 5. Lưu ý “độ vênh” giữa suy đoán của người kể chuyện với hành động tiếp theo của Na-đi-a.

Gợi ý.

- “Độ vênh” giữa phỏng đoán của người kể chuyện và hành động tiếp theo của Nadia là: 

- Người kể suy đoán rằng một người sợ độ cao và nhát gan như Nadia sẽ không trượt tuyết một mình vì mặt cô ấy trắng bệch và đôi chân run rẩy khi đứng nhìn lên đỉnh đồi.

 - Hành động của Nadia là cô ấy run rẩy, sợ hãi nhưng vẫn leo lên các bậc thang lên đỉnh đồi và quyết định đi xuống một mình để xem liệu cô ấy có còn nghe thấy lời nói không. 

=> Suy đoán của người kể chuyện có sự "méo mó" khi nghĩ rằng Nadia sẽ không đi trượt tuyết một mình, những hành động của cô ấy lại khác với suy đoán này.

Câu 6. Lưu ý hình ảnh “hàng rào cao có đinh nhọn” ngăn cách hai nhân vật và hành động “ghé nhìn qua khe hở” của nhân vật “tôi”.

Gợi ý.

Hình ảnh “hàng rào gai cao” ngăn cách hai nhân vật và hành động “nhòm qua lỗ thủng” của nhân vật “tôi”: 

- Hình ảnh “rào cao bằng gai” như một bức tường mỏng ngăn cách hai nhân vật, tuy hai người chỉ cách nhau một hàng rào nhưng tưởng chừng như cách nhau mấy căn nhà. 

- Hành động “nhìn qua lỗ” của nhân vật “tôi” gợi sự tò mò không biết Nadia đang làm gì, đang nghĩ gì và nhân vật “tôi” có tâm trạng phức tạp khi nhìn thấy vẻ mặt buồn bã của Nadia. 

=> Hai chi tiết này đều thể hiện tâm trạng u uất, phức tạp của nhân vật “tôi”, hai nhân vật chỉ cách nhau một bức tường rào nhưng dường như họ bị ngăn cách thành hai thế giới, khó có thể chạm vào nhau.

Câu 7. Xác định tâm trạng của nhân vật “tôi” khi chuyển về thời điểm kể “bây giờ”.

Gợi ý.

Tâm trạng của nhân vật “tôi” khi trở về thời điểm “bây giờ” là tâm trạng nhớ nhung, tâm trạng phức tạp. Nadia có cuộc sống của riêng cô ấy, hạnh phúc của riêng cô ấy và câu nói năm xưa đã trở thành kỉ niệm trong cô ấy, còn nhân vật "tôi" thì vẫn không hiểu tại sao khi ấy cô ấy lại nói những lời đó với Nadi. -À, sao đùa thế.

3. Tìm hiểu chung

3.1 Nội dung chính

Câu chuyện xoay quanh tình yêu giang dở giữa nhân vật "tôi" và Na-đi-a, mọi chuyện bắt nguồn từ câu nói "Na-đi-a, anh yêu em" khi hai người cùng trượt tuyết.

3.2 Người kể chuyện: Ngôi kể thứ I (người kể xưng tôi)

3.3 Tóm tắt: 

Đoạn văn kể về một kỉ niệm giữa nhân vật “tôi” và Nadia khi bên nhau trượt tuyết xuống đồi, "tôi" nói đùa với Nadia rằng "anh yêu em" được phát âm cùng với tiếng gió, và Nadiah đã vượt qua nỗi sợ hãi bằng cách trượt tuyết một mình để khám phá bí ẩn của câu nói này, nhưng chữ tình vẫn là một bí mật. Câu chuyện kết thúc vài năm sau, Nadia kết hôn, và "tôi" vẫn không hiểu tại sao ngày xưa mình lại đùa như vậy. Câu nói đó, nhưng lời yêu vẫn là một bí mật. Câu chuyện khép lại ở nhiều năm sau, Na-đi-a lấy chồng, còn “tôi” vẫn không hiểu vì sao ngày trước mình từng đùa như thế.

3.4 Bố cục: 

Truyện ngắn gồm 5 phần:

  • Phần một: từ đầu đến “…chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình”: lần đầu tiên trượt tuyết và khởi đầu của trò đùa câu nói “Na-đi-a, tôi yêu em!” của nhân vật “tôi”.
  • Phần hai: tiếp theo đến “…sợ hãi như những lần trước”: lần thứ hai trượt tuyết và sự thắc mắc, tò mò ai là người nói câu đó với Na-đi-a.
  • Phần ba: tiếp theo đến “…cốt sao say là được”: những lần trượt tuyết tiếp theo của hai nhân vật và sự say mê câu nói ngọt ngào ấy của Na-đi-a.
  • Phần bốn: tiếp theo đến “…trở vào nhà xếp đồ đạc”: lần trượt tuyết một mình của Na-đi-a và tâm trạng của hai nhân vật khi trò đùa kết thúc bởi câu nói “tôi yêu em” cuối cùng.
  • Phần cuối: còn lại: tâm trạng của nhân vật “tôi” khi kể về cuộc sống hiện tại của Na-đi-a và của mình.

III. Suy ngẫm và phản hồi

1. Người kể chuyện, nhân vật “tôi”

a. Ngôi kể:

Câu chuyện Một chuyện đùa nho nhỏ được kể bằng lời người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Người kể chuyện trong truyện ngắn này là nhân vật tham gia hành động chính - nhân vật “tôi”.

b. Nhân vật “tôi” và sự dịch chuyển điểm nhìn

b.1 Ở lần trượt tuyết thứ nhất

  • Điểm nhìn: Chúng tôi
  • Chủ thể cảm nhận:

Na-đi-a: nàng “thật ghê sợ, tưởng như là một vực sâu vô tận”; “sợ hết hồn, không thở được nữa”. Huống hồ nếu nàng “liều mạng lao xuống cái vực sâu kia” thì không biết rồi ra sao! Nàng “sẽ chết mất, sẽ phát điên mất”.

Trên bề mặt câu chữ là nhân vật “tôi”, song anh ta trực tiếp thể hiện sự đồng cảm của mình với nàng trong cùng một nỗi sợ trượt tuyết chung cho cả “chúng tôi”: Gió ép mạnh, đến nghẹt thở”. Tưởng chừng “như có một con quỷ nào” đang giơ tay nắm lấy chúng tôi và “vừa rú lên vừa kéo xuống địa ngục”. Mọi vật chung quanh nhập lại thành một vệt dài “vun vút” lao về phía sau... Chỉ “một giây lát nữa thôi có lẽ chúng tôi sẽ chết!

⇒ Những từ ngữ cùng trường nghĩa ở cả hai đoạn văn cho thấy lần trượt tuyết đầu tiên được Na-đi-a và nhân vật “tôi” cùng cảm nhận không chỉ là tình huống nguy hiểm, đáng sợ, mà còn thực sự hệ trọng. Lời yêu thương được nói ra trong cảm nhận chung yêu thương đó xuất phát từ tình cảm chân thành.

b.2 Ở lần trượt tuyết thứ 2 và sau đó

  • Điểm nhìn: nhân vật “tôi”. Nhân vật “tôi” đứng ngoài để quan sát, đánh giá thái độ cũng như cảm xúc của Na-đi-a.
  • Trong lần trượt tuyết thứ hai, nhân vật bắt đầu tính toán “đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất, tôi lại nói” và sau đó lại thể hiện giọng thờ ơ, lãnh đạm

Lần thứ ba, anh ta cẩn thận “lấy chiếc khăn tay che miệng đi rồi khẽ hắng lên mấy tiếng”

⇒ Nhân vật “tôi” không đủ dũng khí thú nhận tình yêu đích thực của mình mà biến nó trở thành một trò đùa cợt, khiến hạnh phúc biến mất trong tầm tay. 

b.3 Ở lần Na-đi-a trượt tuyết một mình

  • Điểm nhìn: nhân vật “tôi”
  • "Độ vênh” trong suy nghĩ của nhân vật tôi với hành động của Na-đi-a.

Người kể chuyện suy đoán rằng một người sợ độ cao và nhát gan như Na-đi-a sẽ không trượt tuyết một mình vì mặt nàng nhìn trắng bệch, chân thì run rẩy khi đứng nhìn đỉnh đồi.

Hành động của Na-đi-a là nàng run rẩy, sợ hãi nhưng vẫn xăm xăm đi bước lên bậc thang lên đỉnh đồi và quyết định một mình trượt xuống dưới để xem có còn nghe thấy câu nói ấy không.

⇒ Ở ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện không phải là toàn năng, biết tuốt nên góc nhìn đôi khi mang tính chủ quan.  Đó cũng chính là hạn chế của ngôi kể thứ nhất.

  • Hành động chứng tỏ nhân vật “tôi” không còn khả năng đồng cảm với Na-đi-a nữa:

Hành động thờ ơ đứng nhìn Na-đi-a tự leo lên những bậc thang và trượt tuyết một mình trong nỗi sợ hãi.

Những cử chỉ xa cách, đứng nhìn nàng từ xa và lời nói thì lãnh đạm, không còn sự nồng nhiệt, đắm say như xưa nữa.

c. Khi chia tay

  • Hàng rào cao có đinh nhọn chính là cản trở ngăn cách 2 nhân vật
  • Hành động “ghé nhìn qua khe hở” của nhân vật “tôi” đã cho thấy sự tò mò, muốn tìm hiểu Na-đi-a

d. Sau nhiều năm gặp lại

  • Điểm nhìn: Nhân vật “tôi”
  • Tâm trạng hoài niệm, đầy phức tạp, có nhiều nuối tiếc

2. Nhân vật Na-đi-a

Mặc dù sợ nhưng Na-đi-a vẫn quyết định trượt tuyết cùng nhân vật Tôi là có thể là vì Na-đi-a tôn trọng nhân vật Tôi, có thể Na-đi-a không muốn Tôi buồn, có thể Na-đi-a có tình cảm với nhân vật Tôi nên đã vượt qua nỗi sợ.

“Gió” ở đây chính là tiếng lòng, khát vọng được yêu thương tiềm ẩn có lẽ đã vang lên trong lòng cô gái từ lâu. Trong khát vọng hạnh phúc, cô gái dường như vẫn nghe thấy những lời yêu thương ấy, song cô vẫn muốn đó không phải chỉ là “gió nói” mà phải là lời “anh ấy nói” như một sự thực khách quan để khẳng định hạnh phúc hiện hữu chứ không phải là ảo giác.

Câu nói “Na-đi-a, anh yêu em!” với Na-đi-a là một câu nói hệ trọng, và là một câu nói đem lại cho Na-đi-a hạnh phúc cũng như sự đau khổ.

Bất chấp nỗi sợ, cô quyết định ngồi vào xe trượt xuống "một mình" để "thử xem có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không" vì cô muốn xác nhận lời nói đó có phải là của nhân vật "tôi" hay không.

Một con người mạnh mẽ, có khát vọng về một tình yêu mãnh liệt

Một cô gái dũng cảm dám chấp nhận mạo hiểm để đi tìm sự thật.

Phải biết tôn trọng sự thật và dũng cảm để tìm hiểu sự thật.

3. Cảnh chia tay của hai nhân vật lúc xuân sang

- Cảnh chia li của hai nhân vật trong mùa xuân gợi bao suy ngẫm sâu sắc về nhân vật và cuộc đời. Mỗi nhân vật sẽ có lúc phải chia ly, cuộc sống dù muốn hay không thì vẫn luôn có những cuộc chia ly khiến ta buồn.

 - Nếu ở trong hoàn cảnh tương tự, có lẽ tôi sẽ đến chào tạm biệt Nadia, thổ lộ tình cảm và đùa giỡn với cô ấy, mở lòng bày tỏ tình cảm của mình.

4. Tâm trạng của người kể chuyện, khi kể về tình trạng cuộc sống của Na-đi-a và của mình nhiều năm

- Ở phần kết bài, khi kể lại thực trạng cuộc đời của Nadia và của chính cô những năm sau đó, người kể có tâm trạng phức tạp, có chút bối rối và có chút hoài niệm. Nhiều năm sau, Nadia đã có hạnh phúc của riêng mình, và câu nói này đã trở thành một kỷ niệm khó quên đối với cô, còn nhân vật “tôi” vẫn không hiểu tại sao mình lại đưa ra trò đùa này. 

- Cảm hứng chủ đạo của thời sự là cảm hứng về tình yêu, sự nhắc nhớ về những sự việc đã qua nay đã trở thành kỉ niệm. Truyện ngắn được khơi nguồn từ một kỉ niệm của tác giả, nhớ lại câu nói đùa về câu nói “Anh yêu em” như một cách gửi gắm tình cảm của mình đến cô gái này.

IV. Đọc kết nối viết

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích hình ảnh “hàng rào” trong truyện ngắn “Một chuyện đùa nho nhỏ”.

Gợi ý.

Hình ảnh hàng rào xuất hiện trong cảnh chia ly ở đoạn văn gần cuối tác phẩm trở thành biểu tượng nhấn mạnh trường nghĩa rào cản – chuyển từ rào cản tinh thần giữa hai nhân vật sang rào cản vật chất của hoàn cảnh.

Lưu ý không chỉ phân tích hình tượng “hàng rào” mà còn cần phân tích hành động “đến bên hàng rào và ghé nhìn qua khe hở” của nhân vật “tôi cùng sự giao cảm của hai nhân vật qua việc “gửi lời theo gió”.

Đoạn văn tham khảo:

Hình ảnh hàng rào xuất hiện trong cảnh chia ly giữa nhân vật "tôi" và Nadia. Đó là hàng rào ngăn cách khu vườn nhỏ nhà “tôi” với sân nhà Nadiah, ngăn cách thế giới của “tôi” với thế giới của cô ấy. Shekhov mô tả nó như một "hàng rào cao có gai", tượng trưng cho sự tách biệt tuyệt đối, như một lời cảnh báo cho những kẻ dám xâm phạm. Nhưng giữa những "hàng rào" này vẫn có những khoảng trống, và "tôi" nhìn thấy Nadia, nỗi buồn và niềm khao khát của cô ấy qua khoảng trống này. Chỉ xuất hiện hai lần trong tác phẩm, hình ảnh “hàng rào” giống như bức tường ngăn cách giữa hai con người, cho đến phút cuối cùng họ vẫn không bước qua hàng rào này, nhân vật “tôi” chỉ “đứng cạnh hàng rào”. và thì thầm trong gió những gì Nadiah muốn nghe. Hình ảnh “kết thúc” gợi lại tính chất “đùa giỡn” của lời tỏ tình, bộc lộ kết thúc cuộc chia ly của hai nhân vật.


Biên soạn: GV Nguyễn Duy Tuấn

SĐT: 0945 441181

Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419

Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM

Fanpage: https://www.fb.com/ttductri

Tác giả: Nguyễn Duy Tuấn

Bài 3: Dưới Bóng Hoàng Lan
Bài 5: Thực Hành Tiếng Việt Trang 59