Picture of the author
Picture of the author
SGK Ngữ Văn 9»1»Bài 13: Chuyện Người Con Gái Nam Xương (...

Bài 13: Chuyện Người Con Gái Nam Xương (trích Truyền Kì Mạn Lục)

Nội dung bài Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) - Nguyễn Dữ môn Văn 9 bộ SGK bao gồm bố cục, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, nghệ thuật và tóm tắt nội dung một cách đầy đủ, dễ hiểu.

Xem thêm

“Thân em vừa trắng, lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”

(Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)

Tiếng thơ trên cũng là lời than thở của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi phải chịu bao bất hạnh. Đồng cảm với người phụ nữ như vậy, Nguyễn Dữ đã viết nên "Chuyện người con gái Nam Xương". Đây là một trong các truyện độc đáo, tiêu biểu viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ đương thời. Qua câu chuyện, nhà văn nói lên một cách sâu sắc những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng chân chính về hạnh phúc gia đình của họ. Điều này đã được Nguyễn Dữ gửi gắm qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương.


I. Đọc hiểu chung

1. Tác giả

Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), tên phiên âm là Nguyễn Tự, người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Học rộng, tài cao, là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài.

Là con trai cả của Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lí tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi thi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm quan với nhà Mạc rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ già, xin về ở núi rừng Thanh Hóa.Từ đó ông viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác rồi mất tại Thanh Hóa.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:

Là truyện thứ 16 trong Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền).

Truyền kì mạn lục: gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca. Cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 là Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Tác phẩm được Hà Thiện Hán, người cùng thời, viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm và được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702 - ?) đánh giá là một “thiên cổ tùy bút” (áng văn hay của ngàn đời).

Tác phẩm khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh. Một loại nhân vật khác là những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp.

Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ một truyện dân gian trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, được gọi là truyện Vợ chàng Trương.

b. Thể loại:

Truyện truyền kì: loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc, thịnh hành từ thời Đường.

Các nhà văn nước ta về sau đã tiếp nhận thể loại này để viết những tác phẩm phản ánh cuộc sống và con người của đất nước mình. Nổi tiếng nhất có: Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm)…

Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện dân gian hoặc dã sử vốn đã được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Tuy có xen thêm những yếu tố kì ảo (ma quỷ, thần tiên, yêu tinh, thủy quái…) nhưng mạch chính vẫn là những chuyện có thực, những con người thực có đời sống, có số phận.

Truyền kì mạn lục là đỉnh cao của thể loại này.

Thông qua Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã phản ánh lên hiện thực mục nát của xã hội phong kiến. Xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng Nho gia, đồng thời cũng thể hiện sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung.

c. Tóm tắt tác phẩm:

Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, nàng là người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Vì lẽ đó Trương Sinh cùng làng đem lòng yêu mến bảo mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ. Trương Sinh tuy là con nhà khá giả nhưng không có học, tính đa nghi lại hay ghen. Cuộc sống gia đình êm ấm thì chàng Trương Sinh phải đầu quân đánh giặc. Ít lâu sau, Vũ Nương sinh hạ con trai đặt tên là bé Đản. Mẹ Trương Sinh vì nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng nhưng được ít lâu sau thì bà mất. Năm sau Trương Sinh trở về, bé Đản không chịu gọi chàng là cha mà một mực nói rằng cha Đản thường tối mới đến. Trương Sinh nghi ngờ vợ, Vũ Nương minh oan không được bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm thấy bóng Trương Sinh trên tường bé Đản gọi là cha, lúc bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ nhưng đã quá muộn. Cùng làng với Trương Sinh có người họ Phan vì từng cứu thanh rùa Linh Phi - vợ vua Nam Hải mà sau bị nạn đắm thuyền được cứu sống. Trong bữa tiệc khoản đãi dưới thủy cung Phan Lang nhận ra Vũ Nương. Nghe Phan Lang nhắc chuyện nhà nàng thương nhớ chồng con muốn về dương thế. Nàng nhờ Phan Lang cầm hoa vàng làm tín vật, nói với Trương Sinh lập đàn giải oan nàng sẽ trở về. Nhưng cuối cùng, Vũ Nương chỉ hiện lên giữa dòng sông nói vài câu với chồng rồi biến mất.

d. Bố cục:

Đoạn 1(từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”) : cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.

Đoạn 2 (“Qua năm sau…nhưng việc trót đã qua rồi”) : nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

Đoạn 3 (phần còn lại) : cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Nhân vật Vũ Nương

a. Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương

Nếu truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.

Khi còn ở với gia đình:

Vũ Nương: tên đầy đủ là “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”.

Tính cách: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Điều này cho thấy Vũ Nương tuy nhà nghèo nhưng đẹp người đẹp nết, nàng có vẻ đẹp của một người lí tưởng (đẹp cả dungnhan sắc bên ngoài lẫn hạnhbản tính tốt đẹp bên trong).

Khi về làm dâu:

Trong cuộc sống vợ chồng bình thường nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.

Khi tiễn chồng đi lính:

Nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên.

Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có…”.

Nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình: “mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.

-> Lời dặn dò đằm thắm, đầy tình nghĩa của nàng làm mọi người đều xúc động.

Khi xa chồng:

Là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi – “bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một nỗi buồn thương.

Là người con dâu hiếu thảo, nàng tận tình chăm sóc mẹ già những lúc yếu đau, lo lắng thuốc thang, cầu khấn thần phật. Lúc nào nàng cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Đến khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Lời ngợi ca đẹp đẽ nhất đối với Vũ Nương được Nguyễn Dữ đặt vào chính miệng của mẹ chồng nàng lại càng có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội, bởi lẽ thói thường mẹ chồng vốn không dễ hòa thuận với con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương được ca ngợi vì nàng làm tất cả những việc đó không phải do trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lòng.

Là người mẹ hiền, nàng một mình vừa hầu hạ mẹ chồng chu đáo vừa nuôi con nhỏ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để đùa với con.

-> Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng. Đức hạnh của Vũ Nương là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến gia đình, hết lòng vun đắp và làm tất cả để giữ gìn hạnh phúc của gia đình.

=> Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Khi bị chồng nghi oan:

Vũ Nương sống chẳng phụ ai, nhưng để rồi bị phụ. Nàng hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Cầu xin chồng đừng nghi oan: “dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, nghĩa là nàng đã hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

Đau đớn, thất vọng, Vũ Nương không hiểu vì sao mình lại bị đối xử bất công, ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho” thì nàng vẫn bị chồng mình “mắng nhiếc và đánh đuổi đi”. Lời nói của nàng thâu tóm tất cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích. Hạnh phúc gia đình (“thú vui nghi gia nghi thất”), niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn (“bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió…”), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa (“đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”).

Thất vọng tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông quê hương để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. Nàng “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng.

Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí, không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả (“Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”).

b. Nỗi oan khuất của Vũ Nương

Nguyên nhân trực tiếp: nàng bị chồng nghi oan vì câu chuyện về chiếc bóng qua lời kể của đứa con trai.

Hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương có phần không bình đẳng (Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng” cưới vợ, lời nói của Vũ Nương “thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”). Sự cách biệt về hoàn cảnh đã tạo cho Trương Sinh có thêm một thế mạnh bên cạnh sự gia trưởng của người chồng, người đàn ông trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng, phũ phàng của Trương Sinh còn biểu hiện quyền thế của kẻ hào phú với người tay trắng, vào cái thời mà sự sùng bái tiền của đã bắt đầu làm đen bạc thói đời !

Tính cách của Trương Sinh vốn đa nghi cộng với tâm trạng không vui khi trở về nhà thì mẹ đã mất, nên khi nghe lời nói của đứa con thơ, chàng đã ngay lập tức “đinh ninh là vợ hư”.

Vũ Nương đêm đêm vẫn đùa con, trỏ bóng mình trên vách bảo là cha nó để cho đứa con biết nó có bố, nàng muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống thiếu vắng cha. Nhưng sâu thẳm bên trong là để khỏa lấp nỗi buồn đơn chiếc của người vợ khi xa chồng. Nào ngờ hóa ra chính vì thế mà nàng mất chồng và con nàng thành mất mẹ.

Nguyên nhân gián tiếp: do chiến tranh gây ra. Nỗi oan của Vũ Nương sẽ không thể có nếu Trương Sinh không phải đi đánh trận.

Chiến tranh như một thế lực đe dọa quyền sống, đối chọi với hạnh phúc gia đình. Nếu không có cảnh xa cách trong chiến tranh thì sẽ không thể sinh ra chuyện về chiếc bóng oan khiên, gia đình họ Trương sẽ không tan nát, Vũ Nương cũng không bị hàm oan đến nỗi phải trầm mình trong dòng nước Hoàng Giang.

Một người phụ nữ tiết hạnh như Vũ Nương đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, nhưng sự thật thì khi chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về, nàng chưa được hưởng hạnh phúc đã phải chết một cách đau đớn và oan uổng.

-> Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những không được bênh vực, chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí ; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.

c. Lần tái ngộ của Vũ Nương – Trương Sinh:

Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.

Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có. Các chi tiết kì ảo được lồng ghép khéo léo vào các sự kiện lịch sử, nhân vật có thật… làm tăng tính gần gũi và thú vị cho người đọc. Bên cạnh các chi tiết kì ảo như Phan Lang cứu được thanh rùa, xuống thủy cung, gặp được Vũ Nương… thì chi tiết kết thúc khi Vũ Nương hiện về tạ từ chồng là một chi tiết đặc sắc, góp phần làm tăng giá trị của tác phẩm.

Hình ảnh người thiếu phụ Nam Xương hiện lên lần cuối cùng trong truyện đẹp như mơ. Lộng lẫy, khác xưa, Vũ Nương trở lại dương thế, rực rỡ, uy nghi nhưng xa vời“lúc ẩn lúc hiện” với lời từ tạ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Dù chàng có gọi thì nàng vẫn chỉ thấp thoáng ở giữa dòng sông rồi “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

Chính chi tiết này góp phần tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm. Điều đó thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, thể hiện nỗi khao khát về cuộc sống công bằng hạnh phúc cho người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ. Bên cạnh đó, chính khao khát được trở về tạ từ chồng, gặp lại con của Vũ Nương đã làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của nàng. Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày xưa. Vũ Nương từng ứa nước mắt mà nói rằng “Ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Chỉ bao nhiêu đó thôi đủ để hiện nên một tượng đài trung trinh cho phẩm hạnh của nàng, cũng như của muôn vàn người phụ nữ Việt Nam khác.

Kết thúc như vậy thật sự có hậu hay chỉ tăng thêm tính bi kịch cho tác phẩm? Câu hỏi đặt ra khi hiện thực dần hiện lên trên trang viết, sương khói tan đi, ảo ảnh dần biến mất thay vào đó là một thực tế phũ phàng. Vũ Nương hiện về rực rõ, uy nghi nhưng cũng chỉ là hiển linh trong phút chốc, nàng và chồng con vẫn là âm dương tách biệt, vốn dĩ không có đường quay về. Vũ Nương không trở về có phải chăng chỉ vì “cảm ơn đức của Linh Phi” ? Xã hội đáng sợ ấy liệu có thể dung chứa nàng, dung chứa cái chân thiện mĩ của con người hay cuối cùng hạnh phúc vốn dĩ cũng chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ cảnh tỉnh. Lời từ biệt của Vũ Nương, lần tái ngộ không thể gặp lại của nàng như một lời tố cáo nhân gian phong kiến đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung thân cho người phụ nữ. 

Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể làm sống lại tình xưa. Tất cả chỉ là ảo ảnh, là một chút an ủi cho người bạc phận, nỗi oan đã được giải nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc.

Và chàng Trương lẽ tất nhiên phải trả giá cho hành động “phũ phàng” của mình. So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.

Giữa Vũ Thị và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua. Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh kì ảo, sắc thái bi đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.

2. Hình ảnh Trương Sinh

Đa nghi, độc đoán: “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.

Cố chấp, xử sự hồ đồ, nông nổi và ngu xuẩn:

Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đối diện với nỗi mất mát: mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động.

Lời nói ngây thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương Sinh. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói của đứa con trai làm Trương Sinh không khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha, người cha – Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít”. Sau đó lại thêm những thông tin: “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tính Trương Sinh vốn đã hay ghen, nên khi nghe con nói vậy thì “mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.

Trương Sinh vừa về đến nhà đã “la um lên cho hả giận”, chàng không đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ. Rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”.

Nút thắt ngày càng chặt, kịch tính ngày một cao khi chàng Trương từ một người chồng độc đoán trở thành kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”, hành động ấy đã bức tử Vũ Nương. Đáng giận hơn nữa là cái chết của người vợ thủy chung trước sau như một ấy vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.

Ghen tuông mù quáng: nếu Trương Sinh không để lửa ghen bốc lên mờ mắt, biết suy xét tỉnh táo hơn, cho vợ mình một cơ hội giải thích thì “đời Vũ Nương đã không đến nỗi bạc mệnh”.

-> Chàng Trương tuy là con nhà hào phú, song ít học, lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của Vũ Nương. Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.

->  Bản thân Trương Sinh vẫn gánh lấy bi kịch, thậm chí là bi kịch do chính mình tạo ra. Chàng vẫn phải tiếp tục sống, hàng ngày đối diện với con thơ, đêm đến đối diện với chính chiếc bóng của bản thân, với chính khoảng trống tối tăm của tội lỗi mà chàng dựng nên. Phải chăng qua bi kịch của Trương Sinh, Nguyễn Dữ muốn nhắn nhủ rằng hạnh phúc là một thứ đáng để người ta trân trọng, ở đây không tồn tại khái niệm gương vỡ lại lành mà chỉ khi mất đi rồi người ta mới cảm thấy xót xa và tiếc nuối.

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

a. Nghệ thuật xây dựng truyện

Câu chuyện được dẫn dắt bởi những yếu tố bất ngờ đầy kịch tính. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại và tô đậm những tình tiết có ý nghĩa, tăng cường tính bi kịch, góp phần làm cho câu chuyện sinh động và hấp dẫn. Chẳng hạn thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương, cuộc hôn nhân trở nên có tính mua bán; lời trăng trối của bà mẹ chồng khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng; những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động bình tĩnh, quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết…

Truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật, được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (Lời nói của bà mẹ Trương Sinh là của một người nhân hậu và từng trải. Lời của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có tình, có lí, ngay cả trong lúc đáng tức giận nhất, là lời của một người phụ nữ hiền thục, nết na, trong trắng, không có gì khuất tất. Lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà…).

b. Những yếu tố kì ảo:

Những yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo : Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế ; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang…

Các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng), về thời điểm lịch sử (cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình), sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược nước ta, nhiều người chạy trốn ra bể, rồi bị đắm thuyền), những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân (quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ, riêng Vũ Nương mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn), về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất (cây cối thành rừng, cỏ gai rợp mắt)…Thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:

Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương, một con người dù đã ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự.

  • Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc…”
  • Nỗi đau oan khuất: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.

Phần nào tạo nên kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

c. Chi tiết cái bóng

   Chi tiết cái bóng trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của nhà văn Nguyễn Dữ mang một ý nghĩa rất quan trọng, nó giữ vai trò thắt nút và gỡ rối câu chuyện:

  • Đối với Vũ Nương thì "cái bóng" chỉ là "cái bóng". Khi chồng ở xa, để vơi đi nỗi nhớ, sự thiếu vắng cha cho bé Đản, Vũ Nương đã chỉ "bóng" mình trên vách qua ánh đèn và nói đó là cha Đản. Mục đích lời nói đó của Vũ Nương hoàn toàn tốt đẹp.
  • Đối với bé Đản - một đứa trẻ mới chỉ 3 tuổi nên chưa thể nào hiểu hết những điều phức tạp và vì vậy nó đã tin đó là cha nó: "một người cha đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi theo, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng nín thin thít và không bao giờ bế Đản cả".
  • Còn đối với Trương Sinh - một kẻ thất học, tính lại đa nghi thì "cái bóng" đã trở thành một người đàn ông thực sự. Máu ghen tuông nổi lên, sinh nghi vợ mình không chung thủy, Trương mắng nhiếc, chửi rủa, đánh đập đuổi nàng đi, khiến cho Vũ Nương phải tìm đến cái chết đầy oan nghiệt.
  • Chi tiết "cái bóng" cởi nút câu chuyện: vào một đêm khi ngồi bên ngọn đèn bé Đản chỉ vào "bóng" chàng trên vách và gọi là cha nó. Đến đây Trương Sinh mới thực sự hiểu nỗi hàm oan của vợ mình. Chàng hối hận, nhưng chuyện đã rồi.
  • Chính cách thắt nút và cởi nút câu chuyện qua chi tiết "cái bóng" này đã tăng thêm sự oan ức trong cái chết của Vũ Nương, làm tính tố cáo xã hội phong kiến càng tăng thêm, làm cho sự xót thương đối với thân phận người phụ nữ càng sâu sắc.

d. Ý nghĩa nhan đề

Vũ Nương là một thiếu phụ, vậy tại sao nhan đề lại gọi là “chuyện người con gái” ?

Cách đặt tên tác phẩm là “Chuyện người con gái Nam Xương” có ý nghĩa gợi lên một hình ảnh vừa thơ mộng hơn lại vừa có sức khái quát hơn, không chỉ là câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của một người phụ nữ đã có chồng, mà đó còn là nỗi niềm và thân phận chung của người con gái trong xã hội phong kiến.

2. Nội dung

“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến.

 Tác phẩm cũng thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chỉ là ở một thế giới huyền bí.

    TƯ LIỆU LIÊN HỆ THAM KHẢO

    Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

    (Nguyễn Du)

    Bánh trôi nước ( Hồ Xuân Hương)

    “Thân em vừa trắng, lại vừa tròn

    Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”

    Ca dao: 

    “Thân em như hạt mưa sa

    Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.”


    Biên soạn: GV Tô Thị Dung 

    SĐT: 0355 258 472

    Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419

    Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM

    Fanpage: https://www.fb.com/ttductri

    Tác giả: Tô Thị Dung

    Bài 12: Viết Bài Tập Làm Văn Số 1 – Văn Thuyết Minh
    Bài 14: Cách Dẫn Trực Tiếp Và Cách Dẫn Gián Tiếp