Picture of the author
Picture of the author
SGK Ngữ Văn 9»1»Bài 37: Đồng Chí

Bài 37: Đồng Chí

Nội dung bài Đồng chí - Chính Hữu môn Văn 9 bộ SGK bao gồm bố cục, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, nghệ thuật và tóm tắt nội dung một cách đầy đủ, dễ hiểu.

Xem thêm

“Anh vẫn hành quân

Trên đường ra chiến dịch”

(Trần Hữu Thung)

Đã từ lâu, hình tượng người chiến sĩ quân đội đã đi vào lòng dân và văn chương với những phẩm chất đẹp đẽ. Danh từ "Bộ đội cụ Hồ" đã trở thành cái tên thân thương nhất của nhân dân dành cho người chiến sĩ. Viết về đề tài quân đội có khá nhiều tác giả, và phải kể đến nhà thơ Chính Hữu. Bằng cảm xúc của người trong cuộc, tác giả đã thành viết nên bài thơ “Đồng chí”. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm động mối tình đồng chí thiêng liêng.


I. Đọc hiểu chung

1. Tác giả 

Tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, tại Hà Tĩnh.

Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô.

Tham gia cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

Năm 2000, được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Làm thơ từ năm 1947, thơ ông  chủ yếu viết về người lính và hai cuộc chiến tranh, đặc biệt là tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng đội, quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.

Thơ ông không nhiều nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.

Tác phẩm tiêu biểu: tập thơ “Đầu súng trăng treo”(1966)

2. Tác phẩm 

Xuất xứ - hoàn cảnh sáng tác

In trong tập Đầu súng trăng treo (1966)

Tác giả kể lại: “vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù Việt Bắc và hành quân từ Bắc Cạn lên Thái Nguyên. Chúng tôi phục kích từng chặng đánh, truy kích binh đoàn Baufree. Khi đó tôi là chính trị viên đại đội. Chiến dịch vô cùng gian khổ. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá cây khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại điều trị. Đơn vị cử một đồng chí ở lại chăm sóc tôi. Trong khi ốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí…”. Đó là hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Thể loại

  • Thể thơ tự do, các câu thơ chủ yếu hợp vần chân, nhịp thơ không cố định, theo mạch cảm xúc.

Bố cục

  • 7 câu đầu: Những cơ sở của tình đồng chí.
  • 10 câu tiếp: Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
  • 3 câu cuối: hình ảnh giàu chất thơ về tình đồng chí giữa những người lính.

II. Đọc hiểu văn bản 

1. Những cơ sở của tình đồng chí

Ngay từ đầu, tác giả đã vẽ lên hình ảnh người bộ đội cụ Hồ giản dị, mộc mạc nhưng giàu tình cảm. Đức tính thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí, đồng đội trong những hoàn cảnh gian nguy. Dường như, ở mọi miền quê, mọi miền trên tổ quốc, các anh như hội tụ về cùng một nơi, ở đó họ có chung kẻ thù, chung lý tưởng sống và sẵn sàng hy sinh cho những lý tưởng cao đẹp ấy. Từ những con người xa lạ, bỗng chốc họ trở nên thân thiết:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Dù xa xôi ngàn dặm trên khắp miền tổ quốc, họ đã về đây, cùng nhìn về một phía. Tác giả sử dụng những cụm từ mang ý nghĩa tương xứng với nhau “nước mặn, đồng chua”, “ đất cày lên sỏi đá” một bên là vùng quê gần biển, nghèo nàn nước mặn, đồng chua như chẳng hoa màu gì có thể lên được, còn một bên là đất cằn cỗi, sỏi đá, cho ta thấy một cuộc sống nghèo nàn, đói khổ đầy cơ cực.

Mở đầu bài thơ, tác giả khéo léo đưa ra một điểm tương đồng, một điểm chung giữa hai con người, nó như là một chiếc cầu nối để hai người chiến sĩ có cùng cảnh ngộ đứng sát lại gần nhau hơn. Và bằng biện pháp đối lập “xa lạ” - “quen nhau” cuối cùng họ cũng tìm được một vị trí trong lòng mỗi người.

Cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung một mục đích sống, chung lý tưởng cách mạng, họ đã khoác lên mình khẩu súng của tự do, vũ khí của lòng trung kiên, bất khuất:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

Hai câu thơ gợi cho chúng ta hình ảnh hai người lính cầm chắc tay súng, đứng sát bên nhau, mắt nhìn xa xăm trong khoảng không giữa đêm tối. Họ đang canh gác, nhiệm vụ hết sức nguy hiểm. Hai người lính đứng hiên ngang, sát bên nhau, như đang cùng đối mặt với những gian khó, chung vai gánh vác những trách nhiệm cao cả. Rồi từ những gian khó ấy, những con người xa lạ bỗng chốc trở thành những người bạn, rồi thành “đôi tri kỉ’, cùng nhau sẻ chia sẻ chút ngọt bùi, ấm nồng trong đêm giá buốt “đêm rét chung chăn”. 

Câu thơ thứ bảy chỉ có một từ “đồng chí” được đặt liền kề với dấu chấm cảm, đây là câu thơ quan trọng bậc nhất của bài thơ, hai chữ Đồng chí được lấy làm nhan đề, nó biểu hiện được chủ đề, linh hồn của bài thơ. Nó như cái bản lề nối hai đoạn thơ. Cụm từ “Đồng chí” nghe thật thân thiết và gần gũi, không còn từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm xúc ấy, như bị dồn nén rồi chợt cất lên một cách vội vàng, đầy bồi hồi tha thiết.  Một câu nói vang lên giản dị, mộc mạc mà rất đỗi thiêng liêng, cảm động, nó khẳng định và ca ngợi một tình cảm cách mạng mới mẻ được bắt nguồn từ những tình cảm truyền thống: tình bạn, tình đồng đội trong chiến đấu.

2. Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí

Khi cảnh nước nhà lâm nguy, từ những người nông dân cần cù, chất phác, quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Các anh đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bỏ lại sau lưng quê hương, gửi lại ruộng nương, nhà cửa:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”

Trước tình yêu quê hương đất nước, yêu xóm làng thân thương, nơi có những người thân yêu luôn dõi theo các anh. Rồi họ đã cất bước lên đường, khoác lên mình màu áo xanh, khoác lên vai khẩu súng trường để bảo vệ chính những thứ bình dị mà họ yêu quý. Ruộng nương gửi bạn thân cày, gian nhà không “mặc kệ” gió lung lay, một sự ra đi đầy quyết đoán, rời xa cuộc sống bình yên, bình dị mỗi ngày mà không một chút đắn đo. Nhưng tình cảm ấy, trái tim ấy vẫn luôn hướng về quê nhà. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những từ ngữ hết sức thân thuộc của làng quê, là “giếng nước”, “gốc đa”. Đồng thời như thổi hồn vào trong những thứ vô tri vô giác ấy, từ “nhớ” chỉ sự lưu luyến, nhớ nhung các anh mỗi ngày. Ở đây không đơn giản là nỗi nhớ của “giếng nước”, “gốc đa” mà là cả sự mong mỏi, đợi chờ của những người thân yêu nơi quê nhà, là mẹ già, là người vợ hiền, hay những người con thơ của các anh. Và đó cũng chính là niềm quyết tâm chiến đấu, niềm hy vọng đến ngày trở về khi đất nước hòa bình.

Và trong cuộc chiến khốc liệt ấy, các anh phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ và cả những hiểm nguy. Có biết bao người đã phải ngã xuống, góp một phần máu xương cho đất nước, cho những người ở lại thay họ tiếp tục chiến đấu. Dù vậy, tinh thần lạc quan vẫn luôn trong họ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Như cụ thể hóa bằng những hình ảnh chân thực, bức tranh người bộ đội cụ Hồ với bao gian khó dần hiện ra. Họ phải đối mặt với sự lạnh lẽo, rừng thiêng nước độc bủa vây, đó là căn bệnh sốt rét quái ác “Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi” hay là cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn đủ điều “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Mặc dù phải đối mặt với những gian nguy như vậy, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi các anh, một tinh thần lạc quan, vững chãi không chút lay động. Tác giả Chính Hữu đã khắc họa lên một hình ảnh giản dị, nhưng đẹp và sáng vô cùng “miệng cười buốt giá”. Dường như nụ cười ấy xua tan đi tất cả, nó như một lời động viên, một nỗ lực sống và chiến đấu đầy mãnh liệt.

Tình thương yêu vô bờ họ dành cho nhau qua hơi ấm bàn tay: thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Thương yêu mộc mạc, không ồn ào nhưng thấm thía. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Bàn tay đan vào nhau biểu tượng cho tình đoàn kết, gắn bó, cảm thông và cả sự hứa hẹn lập công. Bàn tay nắm chặt bàn tay để nói được những gì khó nói lên thành lời. Tình đồng chí đem lại cho họ tinh thần lạc quan, vui vẻ, tình thương của họ dành cho nhau chân thành, sâu sắc, đó là nguồn sức mạnh lớn lao giúp họ vượt qua khó khăn, gian khổ.

3. Hình ảnh giàu chất thơ về tình đồng chí giữa những người lính

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Kết bài bằng 3 câu thơ dựng lên bức tranh đẹp về tình đồng chí trong chiến đấu, biểu tượng đẹp về cuộc đời chiến sĩ.

Hình ảnh rừng hoang sương muối diễn tả hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn mà người lính phải trải qua. Ba hình ảnh liền kề: người lính – khẩu súng – vầng trăng gắn kết hòa quyện tạo nên chất lãng mạn cho cả bài thơ. Chính tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng đã gắn bó những người lính lại sát bên nhau. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ đứng vững bên nhau vượt lên tất cả khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh đêm trăng mùa đông nơi chiến trường ác nghiệt.

Câu thơ Đầu súng trăng treo thật giàu hình tượng. Bản đầu tiên tác giả viết đầu súng mảnh trăng treo, sau đó tác giả bỏ đi chữ mảnh, câu thơ còn lại ngắn gọn, cô đúc. Câu thơ gợi ra hình ảnh thực và mối liên tưởng bất ngờ của nhà thơ: mảnh trăng như treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Súng và trăng, gần và xa, thực tại và mơ mộng, hiện thực và lãng mạn. Đó là vẻ đẹp hài hòa của tâm hồn chiến sĩ – thi sĩ, vẻ đẹp tâm hồn của anh bộ đội Cụ Hồ. 

Nhịp điệu của câu thơ đầu súng trăng treo như nhịp lắc của một cái gì đó lơ lửng, chông chênh, nó gợi lên hình ảnh mảnh trăng đang treo lơ lửng nơi đầu súng, nó không bị buộc chặt, nó như một người bạn, cùng chia sẻ chút ánh sáng nơi rừng hoang sương muối để sưởi ấm lòng những người lính. Sự hòa quyện giữa chất thơ của hiện thực và sự lãng mạn đã đưa người đọc theo dòng cảm xúc mênh mông mà đẹp vô cùng, cho người đọc thấy rõ hơn về tinh thần lạc quan, vững vàng không chút lay động của người lính cách mạng lúc bấy giờ.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ phác họa hình ảnh những anh bộ đội từ làng quê nghèo khắp miền đất nước đi đánh giặc. Yếu tố quyết định mọi chiến thắng của các anh là một tình cảm mới nảy sinh, tôi luyện, thử thách ngay trong cuộc kháng chiến. Giá trị của bài thơ được quy tụ lại ở ba câu thơ cuối cùng. Dù trong hoàn cảnh gian nan, những người chiến sĩ vẫn ung dung, tự tin, bình thản chờ giặc. Hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của những người lính.

2. Nghệ thuật

Thể thơ tự do, lời thơ rất giản dị, mộc mạc, gần gũi với lời nói hằng ngày nhưng vẫn rất chắt lọc.

Hình ảnh thơ ẩn dụ tượng trưng, giàu tính hình tượng: giếng nước gốc đa, đầu súng trăng treo, kích thích liên tưởng của người đọc, đan xen nhiều hình ảnh chân thực, giản dị, vừa gợi tả vừa gợi cảm.

Tính nhạc trong thơ: giọng thơ nhẹ nhàng kết hợp nhịp thơ lúc nhanh lúc chậm làm cho bài thơ như một khúc tâm tình của những người đồng chí, đồng đội. (sự kết hợp giữa vần – nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ tạo nên tính nhạc cho bài thơ).

Tóm lại, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, bình dị của người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Khép lại trang thơ, bức tượng đài người chiến sĩ với tình cảm đồng chí, đồng đội cứ dội lên trong tâm trí độc giả với lòng biết ơn sâu sắc sự hi sinh lớn lao vì hòa bình đất nước của các anh. Từ đó, ta mới thấy hết được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và phát triển quê hương, dân tộc mình.

Liên hệ mở rộng

1. Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

( Đất nước-  Nguyễn Đình Thi)

2. Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương.

(Nhớ - Hồng Nguyên) 


Biên soạn: GV Tô Thị Dung 

SĐT: 0355 258 472

Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419

Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM

Fanpage: https://www.fb.com/ttductri

Tác giả: Tô Thị Dung

Bài 36: Trả Bài Tập Làm Văn Số 2
Bài 38: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính