Picture of the author
Picture of the author
SGK Ngữ Văn 9»1»Bài 31: Lục Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga...

Bài 31: Lục Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga (trích Truyện Lục Vân Tiên)

Nội dung bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (trích Truyện Lục Vân Tiên) - Nguyễn Đình Chiểu môn Văn 9 bộ SGK bao gồm bố cục, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, nghệ thuật và tóm tắt nội dung một cách đầy đủ, dễ hiểu.

Xem thêm

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy. Trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này. Đoạn trích nổi bật hình ảnh Lục Vân Tiên - chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc "nghĩa".


I. Đọc hiểu chung

1. Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc TP Hồ Chí Minh). Tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù đổi hiệu là Hối Trai. Mọi người quen gọi ông là Đồ Chiểu. Ông mất tại Ba Tri (Bến Tre) vào năm 1888.

Cha ông vốn là một viên quan nhỏ. Cha bị cách chức nên ông đã có một thời tuổi trẻ khó khăn phải về tá túc tại quê nội ở Huế học nhờ một người bạn của cha. Năm 1843, nhờ chuyên tâm học hành Nguyễn Đình Chiểu đã đậu Tú Tài ở Gia Định.

Ba năm sau khi đang chuẩn bị thi Hội ở Huế thì được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về chịu tang ( Nguyễn Đình Chiểu là con của bà Trương Thị Thiệt, là vợ bé của ông Nguyễn Đình Huy, sinh được 7 người con, Nguyễ Đình Chiểu là con đầu lòng. Năm 1833 vụ biến Vệ Khôi xảy ra ngay trong dinh của Quan Tổng Trấn. Ông Huy trốn về thừa Thiên, bị cách xuống dân thường, ông lén trở vào Gai Định, đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế, gửi nhờ cho ăn học. Từ đó, ông xa mẹ. Chính vì điều đó, khi nghe tin mẹ mất ông vô cùng đau đớn) Không kịp chờ thuận gió đi thuyền,ông đi đường bộ. Đường xa, lại đau đớn trong lòng, ông ngã bệnh, nằm lại dọc đường chạy chữa. Kết cục mù cả hai mắt. Về nhà, người vợ chưa cưới, vì ông mù nên đã từ hôn.

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu đã chịu nhiều đau khổ bất hạnh nhưng ông vẫn sống với đạo đức cao cả, không để thực dân Pháp mua chuộc.

Đứng về phía những người kháng chiến, dù không trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu, ông vẫn luôn cùng bàn bạc với các lãnh tụ nghĩa quân và sáng tác thơ văn động viên cổ vũ những hành động đánh giặc rất chính nghĩa, anh hùng của nhân dân ta.

Các tác phẩm tiêu biểu: Lục Vân Tiên (1851), Dương Từ- Hà Mậu (1854), Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Ngoài ra ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nỗi tiếng như: Chạy giặc (1859), Từ biệt cố nhân (1859), Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc (1861).

2. Tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”

a. Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác

Truyện Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu và ra đời vào khoảng những năm 50 của thế kỉ 19, thể hiện rõ lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu. “Truyện Lục Vân Tiên” là sách gối đầu giường của người Nam Bộ, là tiếng lòng của người miền Nam.

Lục Vân Tiên  được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889.

Đây (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.

Nội dung của truyện là truyền dạy đạo lí làm người, cụ thể là:

  • Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình nghĩa vợ chồng, tình cha con, mẹ con, tình cảm bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
  • Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
  • Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.

b. Thể loại:

Truyện Lục Vân Tiên được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát.

Kết cấu theo lối chương hồi

Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm chủ yếu để kể hơn là để đọc nên chú trọng đến hành động của nhân vật hơn là miêu tả nội tâm, do đó tính cách của nhân vật thường bộc lộ qua việc làm, lời nói, cử chỉ. Thái độ ca ngợi hay phê phán của tác giả đều thể hiện qua cách miêu tả nhân vật.

Ngôn ngữ trong truyện rất giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, đậm đà sắc thái Nam bộ.

c. Tóm tắt tác phẩm:

Lục Vân Tiên quê ở huyện Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài, giữa đường chàng đã đánh tan bọn cướp Phong Lai, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự hoạ bức chân dung chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục cuộc hành trình, gặp và kết bạn với Hớn Minh, một sĩ tử khác.

Sau khi về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông ngư cứu mạng. Sau đó chàng lại bị Võ Công khinh rẻ và bị Võ Thể Loan gạt bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được thần tiên cho thuốc chữa mắt, Vân Tiên may mắn gặp lại Hớn Minh (vì trừng trị công tử Đặng Sinh ỷ thế làm càn mà Hớn Minh phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng). Hớn Minh đón Vân Tiên về am dưỡng bệnh. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả Thể Loan, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết.

Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại nằng nằng đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng nương tựa một bà lão dệt vải.

Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mắt lại sáng, liền trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh tan giặc, Vân Tiên một mình lạc trong rừng và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.

d. Bố cục Truyện Lục Vân Tiên

Gồm 2082 câu thơ lục bát.

Bố cục: gồm 4 phần

  • Lục Vân Tiến cứu Kiều Nguyệt Nga.
  • Lục Vân Tiên gặp nạn.
  • Lục Vân Tiên gặp nạn nhưng vẫn chung thủy với Vân Tiên.
  • Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đoàn tụ.

3. Bố cục và vị trí đoạn trích “Lục Vân Tiên cưu Kiều Nguyệt Nga”:

a. Bố cục: 2 phần

Phần 1: “Vân Tiên ghé lại bên đàng,

...

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

->Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

Phần 2: Phần còn lại  -> Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga.

b. Vị trí đoạn trích:

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện: Vân Tiên trên đường lên Kinh Đô dự thi, chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành. Thấy cảnh bất bình, Vân Tiên nổi giận, chàng bẻ cây bên đường làm gậy. Xông thẳng vào những kẻ trong tay có vũ khí. Chàng đã đánh tan chúng, cứu được Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.

Diễn biến sự việc trong đoạn trích nằm trong kiểu kết cấu của các truyện truyền thống : người tốt gặp nhiều gian truân, trắc trở, bị hãm hại nhưng cuối cùng bao giờ cũng tai qua nạn khỏi, cái thiện luôn chiến thắng cái ác.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Nhân vật Lục Vân Tiên

Đây là nhân vật chính của tác phẩm. Hình ảnh Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ quen thuộc ở truyện Nôm truyền thống: chàng trai tài giỏi, cứu cô gái khỏi tình huống hiểm nghèo, rồi ân nghĩa đến tình yêu. Mô típ này thể hiện mong ước của nhân dân và của tác giả: trong thời buổi nhiều thương hỗn loạn này, người ta trông mong những người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời.

Tác giả đã sây dựng Lục Vân Tiên là nhân vật lí tưởng. Chàng trai trẻ ấy vừa rời trường học bước vào đời, hăm hở muốn lập công danh, thi thố tài năng giúp đời. Gặp bọn cướp hãm hại dân lành là một thử thách, một cơ hội hành động cho chàng.

a. Khi đánh cướp:

“Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Hành động nhanh chóng, quyết đoán với vũ khí thô sơ đã bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng của Lục Vân Tiên . Chỉ một mình, không vũ khí trong khi bọn cướp đông lại gươm giáo đủ đầy, thanh thế lẫy lừng. Lục Vân Tiên vẫn dũng cảm ra tay, bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hành động mạnh mẽ của Lục Vân Tiên  thể hiện cái đức của con người "vị nghĩa vong thân" (vì việc nghĩa quên mình), cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng thế lực bạo tàn.

“Vân Tiên tả đột hữu xung, 
Khác nào Triệu Tử giữa vòng Đương D
ang”

Hình ảnh so sánh đẹp, tuy tác giả không tả tỉ mỉ nhưng đã làm bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và vị tha của Lục Vân Tiên.

Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhả thơ miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc.

Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay

Phong lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong

Với nghệ thuật tương phản:

  • Lục Vân Tiên >< bọn cướp
  • Gậy >< gươm giáo
  • Thắng lợi >< thất bại
  • Cuộc chiến thiện ác, chiến thắng luôn thuộc về người có lòng nhân, biết làm việc thiện.
  • Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp:“Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”.Không sợ nguy hiểm Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân .

b. Khi trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của một con người có văn hoá trong khi ứng xử với hai người con gái : 

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra . Nàng là phận gái ta là phận trai”. 

Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng hoạ. Cười và trả lời: 

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn”

và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên: 

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Cho thấy chàng là một người trọng nghĩa. Đối với chàng, làm việc nghĩa như là bổn phần, là lẽ tự nhiên. Đó là cách cư sử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Giữa cuộc đời lắm nhiễu nhương, cái ác, cái xấu hoành hành, những con người như thế thật cần thiết và đáng quý biết bao.

Với hình ảnh Lục Vân Tiên, nhà thơ mù đã gửi gắm niềm tin và khát vọng của mình về trang anh hùng vì dân dẹp loạn.

2. Nhân vật Nguyệt Nga

Đây cũng là một nhân vật chính và là một nhân vật lí tưởng trong tác phẩm. Những lời giãi bày của Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên đã bộc lộ phẩm chất tốt đẹp cảu nàng. Đó là lời lẽ của một cô gái có giáo dục, có học thức. Cách nói năng của nàng dịu dàng, mực thước và chân thành: 


“Trước xe quân tử tạm ngồi, 
Xin cho tiện thiếp lậy rồi sẽ thưa. 
Chút tôi liễu yếu đào thơ, 
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần. 
Hà Khê qua đó cũng gần, 
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng”

Đó là lời lẽ của một cô gái khuê các, thùy mị, nết na: cách xưng hô "quân tử", "tiện thiếp" khiêm nhường, cách nói năng vui vẻ, dịu dàng, mực thước, cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc triết, vừa đáp ứng đủ những lời thăm hỏi ân cần của Vân Tiên, vừa thể hiện tấm lòng cảm kích chân thành của mình
à Là một cô gái rất mực đằm thắm ân tình, Nguyệt Nga nhớ ơn và mong muốn đền ơn người đã cứu giúp mình giữ được tiết hạnh:

“Lâm nguy chẳng kịp giải nguy.

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.

Nhất là cuối cùng, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời chàng trai nghĩa khí ấy và sẵn sàng liều chết để giữ trọn ân tình chung thủy với người yêu. 

→ Suy cho cùng nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga chính là hai mặt của một cách sống. Một là làm ơn không cần người khác đền ơn. Hai là chịu ơn thì phải nhớ ơn. Đó cũng là tính cách sống có tính truyền thồng tốt đẹp của người Việt Nam chúng ta. Một cách sống cầnđược giữ gìn và phát huy. 

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trong nghĩa khinh tài,  Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.

Truyền dạy đạo lí làm người. Đề cao tư tưởng nhân nghĩa. Xem trọng tình nghĩa giữa con người với nhau trong xã hội.

Thể hiện khát vọng của nhân dân, hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời.

Đặc biệt là phê phán, lên án những kẻ bất nhân phi nghĩa.

2. Nghệ thuật

Là truyện thơ Nôm lục bát

Lời thơ mộc mạc giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày và mang đậm sắc thái địa phương Nam bộ. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên ít trau chuốt uyển chuyển nhưng lại dễ đi sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân, sắc thái ngôn ngữ đa dạng.

Nhân vật chủ yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, càng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, mang tính chất của văn học dân gian.

→ Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời. Những phẩm chất cao đẹp của Lục Vân Tiên là tấm gương sáng về đạo đức nhân cách đối với chúng ta.  Chính chúng ta cũng có thể trở thành anh hùng, khi có những hành động, đóng góp tích cực trong xã hội,...


Biên soạn: GV Tô Thị Dung 

SĐT: 0355 258 472

Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419

Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM

Fanpage: https://www.fb.com/ttductri

Tác giả: Tô Thị Dung

Bài 29: Viết Bài Tập Làm Văn Số 2 – Văn Tự Sự
Bài 32: Miêu Tả Nội Tâm Trong Văn Bản Tự Sự