Picture of the author
Picture of the author
SGK CTST Ngữ Văn 10»Bài 5: Nghệ Thuật Truyền Thống»Phân tích Thị Mầu lên chùa siêu hay có d...

Phân tích Thị Mầu lên chùa siêu hay có dàn ý

Top các bài văn Phân tích Thị Mầu lên chùa lớp 10 siêu hay, ấn tượng có dàn ý chi tiết để tham khảo. Giúp học sinh mở rộng kiến thức và có thêm ý tưởng viết văn đạt điểm cao.

Xem thêm


Chúng ta cùng làm rõ từng nhân vật trong đoạn trích: Thị Mầu, Tiểu Kính. Và những ràng buộc của xã hội cũ đối với người phụ nữ. Từ việc hiểu rõ từng nhân vật, các em sẽ Phân tích Thị Mầu lên chùa chi tiết hơn. Dưới đây là dàn ý và các bài văn mẫu VOH Giáo dục giới thiệu đến các em: 

Sơ đồ tư duy

phan-tich-thi-mau-len-chua-01

Dàn ý phân tích Thị Mầu lên chùa 

Mở bài:

Giới thiệu đoạn trích và khái quát nội dung

Thân bài:

- Nhân vật Thị Mầu

 - Lời nói:

“Đây rồi nhé”

“Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi!”

“Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn”

→ Phóng khoáng, táo bạo, khác biệt với hình ảnh người phụ nữ truyền thống xưa:

- Quan niệm về tình yêu:

- Qua lời thoại của Thị Mầu, có thể thấy nhân vật này khá phóng khoáng, tự do suy nghĩ về tình yêu.

- Thị Mầu nghĩ rằng chỉ cần là mong nhớ, tương tư về người ta là mình có thể tự do đến bên người đó, không ngại quy giáo, lễ nghĩa.

- Là duyên thì mình đến: "Phải duyên thời lấy/ Chớ nghe họ hàng".

- Nét đặc sắc và nổi bật:

- Mang một nét mới lạ so với hình ảnh người phụ nữ truyền thống.

- Đi ngược hẳn với đạo lí, lễ nghĩa ngày xưa.

- Thể hiện cái tôi rất mạnh.

- Tạo dấu ấn sâu sắc trong lòng khán giả.

- Nhân vật chú tiểu - Kính Tâm

-  Ngoại hình:

+ Đẹp như sao băng

+ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

- Lời nói:

+ “A di đà Phật! Cô cho tôi biết tên để ghi vào lòng sớ”

+ “A di đà Phật”

+ “Một nén cũng biên”

+ “Một đồng cũng kể”

+ “Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc”

→ Trầm ổn, dịu dàng, hơi buồn, hình ảnh đậm vẻ truyền thống của người phụ nữ thời phong kiến dù đã quy y cửa Phật.

- Tính cách:

+ Kiệm lời, không muốn nói chuyện nhiều với Thị Mầu, luôn tránh né.

+ Nội dung: Khắc họa hình ảnh Thị Mầu, với tính cách lẳng lơ và buông thả, được thể hiện thành công qua lời nói, cử chỉ và hành động đối với tiểu Kính Tâm. Điều này cho thấy đặc trưng riêng của nhân vật này và cảm nhận niềm cảm thông đối với thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Thị Mầu cho thấy hi vọng được làm chủ cuộc sống của mình, cùng khát khao có được tình yêu tự do của những người phụ nữ xưa.

- Nghệ thuật

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình:

+ Sự xây dựng nhân vật điển hình được thực hiện một cách thành công.

+ Nhân vật được tạo ra với đặc điểm riêng biệt và độc đáo.

+ Từ lời thoại, hành động và suy nghĩ, nhân vật trở nên sống động và thực tế.

- Tình huống truyện đặc sắc lôi cuốn hấp dẫn:

+ Truyện được tạo ra với những tình huống đặc sắc, không gian hấp dẫn và gây cuốn hút.

+ Những tình tiết trong truyện mang tính đột phá và gây tò mò cho người đọc.

+ Cảm xúc được kích thích mạnh mẽ và kéo người đọc vào câu chuyện.

Kết bài

- Khẳng định lại giá trị chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích Thị Mầu lên chùa trích đoạn của Vở Quan Am Thị Kính

Phân tích Thị Mầu lên chùa - Mẫu 1

Vở chèo "Quan Âm Thị Kính" có đóng góp to lớn trong nghệ thuật chèo cổ Việt Nam. Trong đó, nhân vật Thị Mầu được xem là một vai diễn đào lệch so với nhân vật chính Thị Kính - đào thương. Thị Mầu được tạo nên với bản chất lẳng lơ, phóng khoáng, tạo điểm nhấn độc đáo cho vở chèo này. Tính cách đặc trưng này của Thị Mầu được rõ ràng thể hiện qua đoạn trích "Thị Mầu lên chùa", nơi cô thể hiện sự say mê và cố gắng ve vãn Kính Tâm khi lên chùa.

Xét về xuất thân, Thị Mầu là con gái của một phú ông, cô tỏ ra là người con hiếu thảo khi luôn kính trọng đấng sinh thành và nói rằng "thầy mẹ tôi tôn kính một lòng". Sắp đến ngày rằm, Thị Mầu chuẩn bị tiền và gạo để lên chùa cúng, tuy nhiên, khác biệt nằm ở việc cô lên chùa sớm hơn hai ngày so với ngày rằm như mọi người thông thường.

Sự lựa chọn này cho thấy tính cách phiêu lưu và đột phá của Thị Mầu. Cô không tuân thủ theo những quy chuẩn xã hội thông thường mà đi theo cảm xúc và sự tò mò của mình. Hành động này gợi lên sự tò mò và khao khát tự do trong cô, đồng thời tạo nên một sự tương phản đáng chú ý với nhân vật Thị Kính, người đại diện cho sự ngoan cố và tuân thủ.

Điều này cho thấy rằng Thị Mầu không chỉ là một nhân vật đơn thuần trong vở chèo, mà còn là biểu tượng của sự tự do, sự chống đối và sự khác biệt. Tính cách độc lập và phi truyền thống của Thị Mầu đem đến một sự đa chiều và phong phú cho vở chèo "Quan Âm Thị Kính", cũng mở ra cơ hội cho khán giả để suy ngẫm về vai trò và giá trị của những cái đúng, cái sai và những đặc điểm không thể nắm bắt trong con người.

Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ

Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.

Mười ba,

Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba

Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm

Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già

Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca

Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.

Trong lời nói của Thị Mầu trong đoạn trích, ta có thể nhận thấy sự mâu thuẫn và nghịch lý. Cô mong muốn được lên chùa trước lễ Phật và sau đó thăm viếng người già. Mục đích chính của cô khi lên chùa trước là để gặp gỡ sư thầy, nhưng thực tế là cô chỉ tập trung vào việc để ý đến chú tiểu nhỏ. Con số "mười ba" được lặp đi lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày cô lên chùa, mỗi ngày tương ứng với một hành động nhằm tiếp cận và quan sát chú tiểu. Thị Mầu hy vọng có nhiều cơ hội "thăm" chú tiểu trong "một tháng đôi rằm". Từ những lời mời gọi và thừa nhận của Thị Mầu, ta có thể thấy sự lẳng lơ và táo bạo của nhân vật này. Sự táo bạo của cô thể hiện rõ nét qua hành động ghẹo chú tiểu trong chùa. Mọi lời nói và hành động của Thị Mầu đều tập trung vào việc ve vãn Kính Tâm. Ngay khi nhìn thấy chú tiểu, cô đã trở nên si mê và đầy sự hứng khởi. Nhất là khi được Kính Tâm hỏi tên, Mầu liền trả lời: 

Tên em ấy à?

Là Thị Mầu con gái phú ông

Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!

Chưa chồng đấy nhá!"

Thị Mầu liên tục nhấn mạnh nhắc cô vẫn còn là một người con gái đôi mươi chưa chồng, để thể hiện mong muốn giao duyên và kết đôi với chú tiểu. Cô còn dành nhiều lời khen ngợi cho chú tiểu, ví như "Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?" hay "Người đâu đến ở chùa này, cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang". Khi bị người khác cảm thán về việc khen chú tiểu, Thị Mầu không ngần ngại đáp lại bằng cách nói "Đẹp thì người ta khen chứ sao!".

Thị Mầu có vẻ lãnh đạm đối với việc nhà mất bò và không quan tâm đến những chuyện khác ngoài việc ve vãn sư thầy. Cô tập trung vào tán tỉnh chú tiểu mỗi ngày và sự tán tỉnh của cô ngày càng tăng lên. 

"Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua"

Hình như Thị Mầu đã phá bỏ lớp rào ràng buộc chật hẹp của lễ giáo phong kiến đối với người phụ nữ. Người phụ nữ theo Nho Giáo phải “công dung ngôn hạnh”, tình duyên thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi ấy” còn Thị Mầu thì hoàn toàn khác. Cô đi tìm để gặp mối nhân duyên của mình, mạnh dạn bày tỏ, mạnh dạn theo đuổi tình cảm ấy. Điều này cho thấy sự không quan tâm của Thị Mầu đến những truyền thống khắt khe cổ hủ đè nặng nề, cô mong muốn được tự do và tìm được hạnh phúc.

Thị Mầu sử dụng một phép so sánh độc đáo để bộc lộ niềm khát khao yêu đương của mình. Cô so sánh bản thân mình với "gái rở" và thầy tiểu với "táo rụng sân đình". Mầu miêu tả táo chín rụng trong sân đình, có vị chua và chát do không được chăm sóc, còn gái rở thì thích ăn đồ chua và lạ. Như vậy, cô muốn diễn đạt sự khao khát và trái ngược với luân thường đạo lí.

Tác giả dân gian còn thêm những tiếng đến như là lời phê phán đối với Thị Mầu: "Mầu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?". Tuy nhiên, Thị Mầu không từ bỏ ý định mà cô càng mãnh liệt hơn qua hành động khẳng định một cách kiên quyết "Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!". Bằng cách này, cô thể hiện sự tự tin và không quan tâm đến những phê phán từ người khác.

Mặc dù đã dùng nhiều lời ngọt ngào để thể hiện tình cảm, Thị Mầu vẫn không thành công trong việc khiến chú tiểu đáp lại. Vì vậy, cô quyết định sử dụng lời hát ghẹo để tiếp tục ve vãn chú tiểu.

"Ấy mấy thầy tiểu ơi!

Song đứng trước cửa chùa

Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn

[...] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!"

Thị Mầu cố gắng làm chú tiểu chú ý và lại càng thể hiện sự táo bạo của mình. Cô không tuân thủ các quy tắc và truyền thống xã hội đặt ra cho người phụ nữ. Thị Mầu tự do bay bổng, đặt niềm khao khát yêu đương lên hàng đầu và không quan tâm đến những lời chỉ trích hay phê phán từ người khác. 

Đoạn hát ghẹo của Thị Mầu, chúng ta có thể thấy quan niệm của cô về tình yêu là tự do và thoải mái, vượt qua các rào cản và định kiến xã hội. Câu "Ấy mấy thầy tiểu ơi!" được lặp đi lặp lại để nhấn mạnh vào đối tượng mà Thị Mầu muốn tiếp cận và đồng thời là cách để cô bày tỏ những lời giãi bày và mong muốn của mình. Đối với Thị Mầu, hạnh phúc không phụ thuộc vào ý kiến của người thân hay gia đình, mà là cảm nhận và trải nghiệm cá nhân. Cô không quan tâm đến bất cứ điều gì, chỉ tin rằng nếu có duyên thì sẽ đến. Trong đoạn hát ghẹo, Thị Mầu thể hiện mong muốn kết duyên với Kính Tâm bằng cách sử dụng các từ ngữ như "đôi ta", "quyết đợi chờ lấy nhau", "có thiếp có chàng". Thị Mầu cho rằng cô không thể đẹp nếu không có một người đồng hành, nhưng đồng thời cũng là sự khao khát mãnh liệt của một người phụ nữ phóng khoáng và tự do. Khát khao của cô không được đáp lại, nhưng cách thể hiện của Thị Mầu qua lời nói và hành động đã tạo nên một nhân vật độc đáo và cuốn hút trong văn hóa chèo cổ Việt Nam.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Thị Mầu dần trở nên quá đà và bất cẩn, trở nên sỗ sàng. Câu "Bỏ mô Phật đi!" được cô lên tiếng trong chốn chùa trang nghiêm, không giữ gìn khuôn phép và có những lời "báng bổ" đến nhà Phật. Trong thời điểm này, Thị Mầu hoàn toàn không quan tâm đến việc cúng tiến mà chỉ tập trung vào việc tán tỉnh sư thầy. Cô không chỉ mất đi sự tôn trọng đối với chốn chùa mà còn trở thành một người mất kiểm soát và không suy nghĩ trước khi nói.

"Mong cho chú tiểu quét sân

Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay

Lá tình không gió mà bay!"

Hay:

"Muốn rằng cây cải cho xanh

Thài lài rau dệu tám thành bờ tre"

Với việc chú tiểu không thấu hiểu được nỗi lòng của mình, Thị Mầu đã mang trong lòng tình cảm nhớ thương "Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!". Không chỉ dừng lại ở lời nói, hành động của Thị Mầu cũng làm nổi bật tính cách và đặc điểm của nhân vật. Cô liều lĩnh xông ra nắm tay, nhận quét chùa thay cho Tiểu Kính trong khi cùng làm việc. Hành động này, trong thời đại phong kiến, được xem là không chấp nhận được vì nguyên tắc "nam nữ thụ thụ bất thân". Điều này càng trở nên phản chuẩn mực khi Kính Tâm là một người tuân theo đạo. Từ đó, tính cách và đặc điểm của Thị Mầu được khắc họa qua cách nói và hành động. Cô là một người phụ nữ nổi loạn, đứng lên chống đối quan niệm đạo đức phong kiến. Tác giả dân gian thông qua nhân vật Thị Mầu muốn lên án và phê phán những người phụ nữ không tuân thủ tiết hạnh và chuẩn mực xã hội.

Trong đoạn trích "Thị Mầu lên chùa", Thị Mầu đóng vai trò là biểu tượng của những người phụ nữ phóng túng, một trái ngược đối lập với quan điểm và chuẩn mực chung trong xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị Kính, Thị Mầu cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của đoạn trích và vở chèo nói chung.

Phân tích Thị Mầu lên chùa - Mẫu 2

Có những điều khiến cuộc sống trở nên đầy màu sắc như ngày hôm nay, như những giai điệu êm tai hay những con chữ trên cuốn sách. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, được sinh ra là để con người giãi bày tâm tư, nhìn nhận về cuộc đời, từ đó rút ra những bài học chiêm nghiệm cho bản thân. Chúng là những cầu nối văn hóa giữa các thế hệ, mang lại sự tiếp nối và phát triển cho con người. Là một hình thức nghệ thuật độc đáo và lâu đời nên chèo không mấy xa lạ với chúng ta. Nó nảy sinh từ kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, lấy âm nhạc làm nền, ngôn từ ví von cùng cách diễn tả trực tiếp và đa dạng. Chèo được coi là loại hình sân khấu của hội hè đặc sắc, mang đến cho khán giả  những giây phút giải trí thú vị và cảm nhận sâu sắc về cuộc sống. Trong số những vở chèo kinh điển, vở "Quan âm thị kính" đã gắn bó với lòng người suốt hàng thế kỷ. Với sự sáng tạo và tinh thần nghệ thuật tuyệt vời, vở chèo này khắc họa câu chuyện đầy xúc động về sự hi sinh và lòng nhân ái. Nó đặt ra những câu hỏi sâu sắc về giá trị con người, nhân phẩm và tình yêu thương. Bằng cách kể chuyện qua những bài hát, đội diễn viên chèo đã truyền tải thông điệp ý nghĩa về sự sống và sự hiện diện của thiên nhiên và đạo đức trong cuộc sống hàng ngày.

Lễ chùa và việc Thị Mầu lên chùa là một trong những nét đẹp của phong tục truyền thống trong văn hóa người Việt Nam. Lễ chùa cúng vái không chỉ là sự tôn trọng và tín ngưỡng tôn giáo, mà còn là biểu hiện sâu sắc của lòng thành kính và lòng biết ơn. Thị Mầu lên chùa trong vở chèo  "Quan âm thị kính" mang đến một góc nhìn khác về việc lên chùa. Với hình ảnh một cô gái xinh đẹp, lả lướt và có phần lẳng lơ, Thị Mầu lên chùa mang đậm tính chất tượng trưng, đại diện cho những trạng thái tâm linh và tâm trạng của con người trong cuộc sống.

Đoạn trích "Thị mầu lên chùa" không chỉ là một phần trong câu chuyện chèo mà còn là một cách nhìn sâu sắc vào xã hội và con người thời bấy giờ. Nó cho chúng ta nhìn thấy những giá trị văn hóa, tôn giáo và đạo đức mà người dân xưa đã coi trọng và tôn vinh. 

Với sự kết hợp giữa nghệ thuật chèo và nét đẹp của lễ chùa, vở chèo "Quan âm thị kính" đã trở thành một biểu tượng văn hóa, lưu giữ và truyền bá những giá trị tốt đẹp cho thế hệ sau. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về xã hội và con người trong quá khứ, đồng thời khơi gợi lòng yêu mến và trân trọng văn hóa của đất nước.

Thị Mầu từ đầu đã được xây dựng là một người con gái lẳng lơ, không tuân thủ theo quy tắc "tam tòng tứ đức" trong xã hội thời xưa. Do đó, những điểm yếu và xấu xa của Mầu dễ dàng hiện ra. Một điểm yếu đó là sự mù quáng trong tình yêu, khi Mầu đắm say và dồn dập yêu đương một cách điên cuồng. Tuy nhiên, sự mù quáng này dễ để thấu hiểu và thông cảm, thậm chí đáng yêu. Mầu không nhận ra rằng đối tượng của cô là Thị Kính giả trai. Hành động của Mầu trong việc thể hiện tình cảm với chú tiểu là một màn diễn trống rỗng, với những lời khen và ánh mắt tinh nghịch. Cô cười tươi như hoa và sử dụng những câu nói mơ hồ, ẩn dụ theo phong cách dân gian, nhằm "đánh" vào trái tim chú tiểu. Mầu không ngại ngùng và quyết tâm trong hành động của mình, như khi đợi chú tiểu ra khỏi chùa để nắm tay và đề nghị quét chùa thay cho chú tiểu. Những hành động và lời nói táo bạo, mãnh liệt và quyết tâm này đều thể hiện sự kiên định của Mầu, mà không có sự e thẹn, do dự hay ngại ngùng.

Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh rằng cô chưa có chồng. Điều này cho thấy Mầu đang tìm cách lôi kéo chú tiểu và khẳng định tình cảm của mình một cách mạnh mẽ và không gượng ép.

“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!

Chưa chồng đây nhá!”

Trong cuộc đi lễ chùa, Thị Mầu có lẽ đã bị chú tiểu ấy thu hút ngay từ cái nhìn đầu tiên, mà không quan tâm đến việc tham gia lễ Phật. Sự theo đuổi của Mầu đối với chú tiểu được diễn đạt qua hai điệu hát "Cấm giá" và "Bình thảo". Điệu hát "Cấm giá" phản ánh sự e ấp và chần chừ trong những câu thơ mới bắt đầu của Mầu.

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba

Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

Trong khi sự ve vãn bên ngoài không mang lại kết quả, Thị Mầu bỗng trở nên bình thản. Trái tim nóng bỏng của Mầu muốn đốt cháy chú tiểu bằng tình yêu đã không còn được thể hiện qua lời ca trong điệu hát, không còn ngọt ngào như trước:

“Người đâu ở chùa này

Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

Ấy mấy thầy tiểu ơi”

...

“Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua"

Phép so sánh trong đoạn này thực sự độc đáo và lạ. Thị Mầu sử dụng ví von để thể hiện khát khao yêu đương của mình. "Thầy như táo rụng sân đình / Em như gái rở, đi rình của chua." Hình ảnh cây táo rụng ở sân đình, sau mùa xuân chín mà không được chăm sóc, táo trở nên chua chát. Trong khi đó, người phụ nữ gọi là gái rở, thường khao khát cái chua, khao khát đến mức phải đi rình mò hòng khao khát có được. Gặp quả táo, người phụ nữ ấy như ăn dở, phải nhai ngấu nghiến. Việc Thị Mầu so sánh chính mình với gái rở và chú tiểu Kính với táo rụng sân đình tạo nên hình ảnh rõ nét và dễ hiểu. Các câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng và khát khao hạnh phúc của Thị Mầu. Nàng dám yêu, dám tự tin chinh phục tình yêu ấy.

Những lời từ đó không chỉ giúp Thị Mầu tự thể hiện bản thân mình, mà còn phê phán giá trị của các yếu tố trong vở chèo dân gian và đạo đức giả của đạo đức phong kiến. Trong khi Thị Mầu thể hiện những lời mời mọc ngọt ngào, Thị Kính lại giữ khoảng cách, từ chối và lẩn tránh, luôn tụng kinh "Niệm Nam mô A Di Đà Phật!" Âm nhạc đồng hành với giai điệu phóng túng và những tiếng gõ mõ tụng kinh thể hiện hai tâm trạng khác nhau, tạo nên một màn trình diễn độc đáo.

Hai người con gái trong câu chuyện: Thị Mầu và Thị Kính. Đều phải đối mặt với sự trói buộc của lễ giáo phong kiến và những hạn chế xã hội đối với người phụ nữ. Thị Kính, với tất cả những phẩm chất tốt đẹp, đáng ra nên có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ. Nhưng thay vì thế, cô phải chịu đựng một số phận đau khổ và bất hạnh, cuối cùng phải tìm nơi trốn tránh trần thế, lên chùa đi tu. Còn Thị Mầu, cô cũng chìm đắm trong đau khổ và bất hạnh. Thị Mầu mãi mãi không có được tình yêu mà mình mong muốn, vì sự hà khắc của lễ giáo phong kiến mà có kết cục thê lương.

Sự bất công và oan trái bắt đầu khi Thị Kính bị hiểu lầm và bị mẹ chồng, Sùng bà, đánh đập và sỉ nhục. Mẹ chồng đầy tàn nhẫn này đã thậm chí đẩy ngã Thị Kính, khiến cô phải đối mặt với sự nhục nhã và mất lòng tin từ những người thân yêu trong gia đình. Đau đớn càng gia tăng khi Thị Kính phải chứng kiến cảnh người khác nhục mạ cha mình. Không gì có thể so sánh với nỗi đau mà cô phải chịu đựng - hôn nhân tan vỡ, gia đình bị phá vỡ, lòng tin bị mất và sự xúc phạm đối với người thân yêu. Trong tình trạng bất lực và đau khổ này, Thị Kính đã đạt đến đỉnh điểm và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ra đi.

Trước khi rời khỏi tổ ấm của mình, Thị Kính không thể quên ngoái nhìn những kỉ vật của một thời gian hạnh phúc - thúng khâu, chiếc kỉ và thúng sách. Những vật phẩm này không chỉ là những kỷ niệm của quá khứ, mà còn là những bằng chứng cho những oan ức mà cô phải chịu đựng. Nhìn lại tất cả, Thị Kính cảm nhận nỗi đau đớn, sự xót xa và cả sự tiếc nuối. Rời xa ngôi nhà, cô quyết định tìm nơi trú ẩn tại cửa chùa. Đây là lựa chọn tất yếu vì cô đã bị đuổi khỏi nhà chồng và không thể trở về nhà cha mẹ, do sự hạn chế của lễ giáo phong kiến. Thị Kính quyết định giả trai và tìm kiếm sự che chở trong cửa Phật, hy vọng sẽ tìm thấy cuộc sống yên bình và một nơi thanh tịnh để chứng minh sự trong sạch của mình. Tuy nhiên, số phận như lại trêu đùa cô. Thị Kính bởi vẻ ngoài thanh tú đã khiến cho Thị Mầu đắm say, từ đây lại tiếp tục chuỗi ngày oan trái, đau khổ và nó chỉ chấm dứt khi Thị Kính kiệt sức và chết. Nàng đại diện cho những người phụ nữ xưa chịu sự áp đặt của Nho Giáo, từ khi sinh ra đã chịu đeo gông kiềng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử,...) và phải mang vác nó đến khi chết đi.

Trong khi đó, Thị Mầu, một nhân vật tương phản hoàn toàn với Thị Kính, không ngừng gọi chú tiểu và tỏ ra say mê và yêu thương tha thiết. Mầu khao khát được yêu và nhận lại tình yêu chân thành. Cô dám phơi bày trái tim của mình trước mọi người, dám thổ lộ và tấn công. Thị Mầu không ngại ngùng trong việc diễn tả tình cảm của mình. Cô sử dụng những lời đề và hành động gợi cảm, như khen ngợi đẹp như sao băng, nhìn chú tiểu với ánh mắt sắc như dao bổ cau và những lời bóng gió để thu hút sự chú ý của chú tiểu. Thị Mầu không ngừng gọi tên chú tiểu, bộc lộ nỗi lòng say mê và tình yêu tha thiết. Ngày càng mãnh liệt hơn:

“Một cành tre, năm bảy cành tre

Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng

Ấy mấy thầy tiểu ơi!…

Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ

Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”

Nhưng trong cuộc tương tác giữa hai người phụ nữ này, chú tiểu lại lơ đi những lời gọi của Thị Mầu và không đáp lại tình cảm của cô. Lời tỏ tình của cô chứa đựng những ước mơ về tình yêu tự do, quyền lựa chọn và sự phá vỡ những giới hạn trong xã hội phong kiến. Thị Mầu dám nói lên ý kiến nữ quyền và muốn phá bỏ những quy tắc cũ kỹ của xã hội, đập tan những lệ làng, đạo đức giả và quan niệm cổ hủ, để tìm lại hạnh phúc thực sự cho con người.

Trong những lời hát ghẹo của Thị Mầu, chúng ta cảm nhận được khao khát tình yêu chân thực và đáng đồng cảm. Cô tuyệt vọng trong việc đối mặt với những giới hạn và ràng buộc xã hội, nhưng vẫn không ngừng hy vọng vào một tình yêu đích thực và tình yêu đồng đều. Thị Mầu đại diện cho những giọt sáng hy vọng trong một xã hội chịu đựng nhiều sự khuất phục và bất công.

Tuy nhiên, Thị mầu vẫn được đánh giá là người phụ nữ lẳng lơ. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bất ngờ mang thai và bị làng phạt vạ. Để giải quyết tình huống này, Thị Mầu đã mưu vu vạ cho Kính Tâm ăn nằm cùng mình. Họa giáng xuống đầu, nàng giả trai đi tu lại không biết làm sao để biện giải và gỡ mối oan này.

Sau khi Thị Mầu sinh con trai, cô đã bỏ đứa bé trước cổng chùa. Khi Kính Tâm thấy điều đó, cô đã không ngần ngại ra ẵm lấy đứa bé và chăm sóc nhiệt tình. Mỗi ngày, Kính Tâm phải đi xin sữa khắp đầu làng, bị thế gian cười chê. Ba năm sau, sức khỏe Kính Tâm suy yếu và trước khi qua đời, cô viết một lá thư dặn đứa bé trao lại cho cha mẹ ruột. Đứa bé vội lên chùa và báo cáo cho sư cụ. Lúc này, mọi người mới biết rằng Kính Tâm là một người phụ nữ. Khi lá thư của Kính Tâm đến quê, sự thật về Cô  không phải là người giết chồng đã được làm sáng tỏ nàng cũng được giải oan đứa con của Thị Mầu.

Cần nhận ra rằng việc Kính Tâm nhận con của Thị Mầu cũng có những nguyên nhân sâu xa. Như một người phụ nữ, Kính Tâm đã nhận thức được rằng cuộc sống và tình cảm của Thị Mầu chứa đựng những uẩn khúc riêng. Hành động "không chồng mà chửa" của Thị Mầu đối với đạo đức nghiệt ngã trong xã hội thời đó là một tội ác lớn. Hình phạt có thể là gọt tóc, bôi vôi và thả bè trôi sông. Vì vậy, việc Thị Mầu đổ oan cho Kính Tâm không chỉ là một hành động vu oan giá họa cho kẻ tu hành, mà thực sự là một lời kêu cứu từ lòng từ bi của Phật để giải thoát khổ đau. Điều này thể hiện trong Kính Tâm, người xuất gia và là nữ giới, sự kết hợp của từ bi, trí tuệ và phẩm chất. Đó chính là lý do Kính Tâm chấp nhận oan trái để giảm đi nỗi khổ của Thị Mầu.

Như vậy, "Thị Kính và Thị Mầu đại diện cho hai cách tiếp cận khác nhau đối với cuộc sống và tình yêu. Thị Kính hiền hậu, chịu đựng bất công và hy sinh bản thân để chăm sóc đứa bé không phải của mình. Nhẫn vô sanh nhẫn của Thị Kính thể hiện sự nhẫn nhục, hy sinh và sẵn sàng chịu đựng cảnh oan trái. Ngược lại, Thị Mầu lẳng lơ, táo bạo và không biết khó mà lui, muốn tự mình phá bỏ mọi rào cản. Hành động của Thị Mầu đã gây oan cho Thị Kính và buộc Kính Tâm phải chịu trận. Dân gian đã tạo thành ngạn ngữ "oan Thị Kính" để ám chỉ những nỗi oan khuất không thể giãi bày. Trong khi đó, "oan Thị Mầu" chỉ sự vu oan và phản biện của một người gây ra chính mình. Tuy Thị Mầu có những tình huống đáng trách, nhưng cũng đáng thương vì nàng là một người phụ nữ bị hạn chế quyền tự do và tình yêu. Thị Mầu dám sống, dám yêu và dám đối mặt với những ràng buộc của xã hội cũ. Tuy với nhiều khuyết điểm, Thị Mầu đã trở thành một nhân vật đáng thương và mang trong mình một sự phản kháng chống lại sự bế tắc và định kiến trong cuộc sống."

Thị Mầu là một người phụ nữ đặc biệt, có tính cách riêng và dám vượt qua những giới hạn của xã hội truyền thống để tự khẳng định bản thân. Nàng là biểu tượng cho những khát vọng của người phụ nữ xưa, khao khát tự do trong tình yêu và cuộc sống. Tuy các hành động của Mầu trong chùa không đúng đắn, nhưng điều đó là do khao khát tình yêu khiến lý trí bị mờ đi. Nhân vật Thị Mầu trong vở chèo cổ thể hiện một phẩm chất quan trọng của người phụ nữ Việt Nam - khao khát yêu đương. Đây là quyền tự do cơ bản của phụ nữ và con người. Tuy nhiên, xã hội phong kiến đã áp đặt những giới hạn và quy tắc giả tạo để kiềm chế quyền này, khiến người phụ nữ không thể tự do tìm hiểu, yêu đương và lựa chọn đối tác của mình. Thị Mầu tỏ ra ý thức về quyền tự do trong tình yêu và cảnh tỉnh chị em không nên nghe theo những quan niệm hạn chế từ người thân. Nàng là một người nghệ sĩ, biểu hiện sự tự do trong nghệ thuật và khát vọng thể hiện bản thân.

Phân tích Thị Mầu lên chùa - Mẫu 3

Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ đã dũng cảm lắng nghe tiếng lòng của thời đại, nói lên những bất công và sự bạc bẽo đối với thân phận người phụ nữ. Trong bài thơ của bà, câu "Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non" tượng trưng cho sự tan biến nhanh chóng của phụ nữ trong một xã hội chưa công bằng. Mặc dù  "tài hoa bạc mệnh," nhưng phụ nữ xưa vẫn làm tròn nhiệm vụ của mình với "công dung ngôn hạnh." Hình ảnh của người phụ nữ xưa được ghi nhớ qua vẻ đẹp tinh tế, dịu dàng và thuần khiết như băng thanh ngọc khiết đó là Thị Kính. Tuy nhiên, không thể tổng quát hóa tất cả, vì trong xã hội cũng có những người phụ nữ thể hiện sự lẳng lơ, thể hiển cá tính và bộc bạch theo đuổi tình yêu của mình như nhân vật Thị Mầu. Cả hai nhân vật này đã được tạo hình một cách xuất sắc trong đoạn trích "Thị Mầu Lên chùa" và tác phẩm "Quan Âm Thị Kính."

“này chị em ơi

….

Chính chuyên cũng chẳng son để thờ”

Đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" trong tác phẩm "Quan Âm Thị Kính" đã được truyền bá dưới nhiều hình thức khác nhau, như hát chèo, cải lương, kịch, thơ và văn xuôi. Tuy nhiên, nguồn gốc và tác giả chính thức của tác phẩm này vẫn chưa được xác định rõ. Có nhiều bản in khác nhau được phát hiện sau đó và nó đã trở thành một vở diễn chèo được biểu diễn trên sân khấu và phổ biến rộng rãi. "Quan Âm" đề cập đến một vị bồ tát có tâm sáng phúc hậu, luôn lắng nghe tiếng kêu cứu của nhân loại và giúp đỡ. Tên "Thị Kính" được sử dụng để phân biệt với tên của nam giới và có ý chỉ đến một phụ nữ yếu mềm, không có tác dụng gì. Tuy nhiên, cũng có quan niệm rằng chữ "Thị" có ý miệt thị và phân biệt đối với phụ nữ. Trong khi đó, chữ "Kính" biểu thị sự nghiêm chỉnh, không phóng túng và giữ gìn tâm trong sạch. Từ "Kính" cũng đại diện cho việc tiến gần hơn vào con đường đạo. Qua "Quan Âm Thị Kính", phẩm chất cao quý, đức hạnh nhẫn nhịn của Thị Kính được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích "Thị Mầu lên chùa". Nó là một tấm gương bi thảm được gọi là "Oan Thị Kính".

Nàng Thị Kính là một người phụ nữ tài sắc và tinh tế, đã được gả cho Thiện Sỹ, một thư sinh trong gia đình Sùng. Hai vợ chồng sống hòa thuận và yêu thương nhau. Một ngày, khi chồng đọc sách và vợ ngồi bên cạnh khâu, chàng tựa vào vợ để nghỉ. Nàng thấy trên cằm chồng có một sợi râu mọc ngược, nên nàng lấy dao để cắt sợi râu đó. Chàng bất ngờ tỉnh dậy, tưởng rằng vợ có ý định hại mình, nên đã hét lên. Bà mẹ chồng đổ lỗi cho nàng, tưởng rằng nàng cố ý giết chồng. Họ kêu Mãng Ông đến và trả lại nàng cho gia đình. Bị oan uổng, nàng không thể xóa đi cái hiềm ác trong mắt mọi người. Bị mang tội sát phu lại chịu cảnh “tình gian lý ngay” nàng phải trải qua nhiều khổ đau không thể tả được. Nàng quyết định tu hành, để báo đáp ơn cha mẹ và giải tỏa phần nào nỗi oan khiêm. Trong đêm, nàng cắt tóc giả thành nam và trốn khỏi nhà. Lần nữa, nàng bị oan uổng khi bị cho là đã bỏ nhà theo một người con trai. Nhưng khi nàng vào chùa, một lần nữa nàn lại gặp nỗi oan tận thấu trời xanh. Nơi mà nàng tìm kiếm sự bình yên trong lòng, nàng chỉ muốn tránh xa những xung đột, mưu toan, khó khăn và gian khổ của cuộc sống đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, không mọi sự diễn ra theo ý nàng.

Trong chùa, nàng gặp Thị Mầu, một người phụ nữ có tính cách trái ngược với quan niệm truyền thống về người phụ nữ. Nàng không tuân thủ những quy tắc dành cho người phụ nữ, ăn to nói lớn, buông lời lả lơi, tán tỉnh chú tiểu và không giữ được vẻ nhu mì trong cách ăn mặc và hành xử. Điều này tạo ra sự tương phản giữa Thị Mầu và Thị Kính từ cái nhìn đầu tiên, qua cách nói chuyện và hành động.

“này chị em ơi 

Bạch nhà sư trong ấy, cho chú tiểu ra nhận lễ, cho tôi còn về nào” 

Trong không gian yên tĩnh, linh thiêng của nhà chùa, bỗng náo loạn bởi sự xuất hiện náo nhiệt của Thị Mầu với những trang phục tươi sáng, khăn xanh rực rỡ và những vòng múa cuồng nhiệt. Sự bùng nổ này thể hiện sự khao khát mãnh liệt, đam mê cháy bỏng trong tình yêu của Thị Mầu. Nhưng đồng thời, cũng đến cùng với nó là những tiếng hò không kiềm chế, không phù hợp với không gian yên tĩnh của chùa.

Ngược lại, Kính Tâm đã quy y vào đạo Phật và sống một cuộc sống lễ phép. Nàng luôn nói với sự kính trọng "A Di Đà Phật" và không quan tâm tới chuyện thị phi. Kính Tâm không ham mê vật chất phàm trần, ăn mặc giản dị và mang vẻ ngoài bình lặng. Nàng tập trung vào việc tu thiền.

Hai nhân vật này mang hai hình tượng hoàn toàn đối lập nhưng lại xen kẽ vào nhau, tạo nên sự tài tình và thể hiện tính cách khác nhau. Thị Kính đại diện cho hiền đức và nhu mì, trong khi Thị Mầu thể hiện sự lơ lẵng, buông thả trong cuộc sống. Cuộc gặp gỡ giữa Thị Mầu và Kính Tâm không chỉ là một cuộc đối thoại, mà còn là sự nảy nở của tình duyên từ phía Thị Mầu và nghiệp duyên oan ức của Thị Kính. Trong cuộc trò chuyện, Thị Mầu không chỉ đưa ra tên mình một cách lẳng lơ mà còn khoe khoang về việc "chưa chồng", cô muốn thu hút sự chú ý và mở đường cho tình duyên với Kính Tâm. Trong khi đó, Kính Tâm vẫn giữ được sự trang nghiêm, luôn hướng về Phật và tuân thủ những nguyên tắc đạo đức.

“A Di Đà Phật

Khấn nguyện thập phương

Kinh trình tam bảo

Lòng người có đạo

Đem của cúng đàn

Một nén cũng biên

Một đồng cũng kể

Tuy vân bạc lễ

Dân kiến thành tâm

Phật Tổ giáng lâm

Quỷ thần soi xét” 

Kính Tâm tiếp tục thể hiện mình là một người phụ nữ đẹp nết, thông minh và biết lễ độ. Cô luôn ghi nhớ công đức và lễ nghĩa của người khác, sự nhân ái của cô được đón nhận nên cửa chùa luôn mở cửa chào đón cô. Kính Tâm cầu nguyện cho những người khác và nhờ sự chứng giám của phật tổ. Tâm hồn cao đức của cô là nguồn gốc của sắc đẹp, và ngay cả khi cô giả làm nam nhân, sắc đẹp của cô vẫn toát lên và làm rung động Thị Mầu. Đúng như câu tục ngữ "Tâm sinh tướng", bên trong tâm hồn của Kính Tâm thể hiện bên ngoài.

Thị Mầu không ngại thể hiện suy nghĩ một cách tự do và phóng khoáng. Trước vẻ đẹp quyến rũ của Kính Tâm, cô không ngần ngại bày tỏ: "Người đâu mà đẹp như sao băng ấy nhỉ". Người bên cạnh nhắc nhở cô rằng "Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi". Lạ thay, ai lại đi khen người tu hành như vậy? Lời nhắc nhở đó nhằm bảo Thị Mầu phải kiềm chế, giữ lễ nghi và nhận biết được ranh giới giữa người thường và người quy y. Thị Mầu tỏ ra không chịu nghe lời nhắc nhở đó một cách xấu hổ, và đáp lại một cách tự tin và trêu ghẹo. Cô còn bộc lộ tình yêu say đắm của mình thông qua các câu hát giao duyên và thậm chí cởi mở đến mức sổ sàng.

Người đâu đến ở chùa này 

– Cổ cao ba ngấn lông mày nét ngang

(ấy mấy thầy tiểu ơi)

– Thầy như táo rụng sân đình 

Em như gái rở đi rình của chua 

(Ấy mấy thầy Tiểu ơi)

– Cầu non tiện chũm lòng đào 

Trầu têm cánh phượng thiếp trao cho chàng

(ấy mấy thầy tiểu ơi)

Những lời nói đầy biểu cảm và sự gợi tình của Thị Mầu trong điệu hát chèo đã thể hiện tính lẳng lơ của cô. Các cử chỉ và giai điệu của Thị Mầu đầy sắc ong bướm, táo bạo và khiêu khích. Trong khi đó, Thị Kính mang lại cảm giác bình yên và nhẹ nhàng. Thị Kính luôn đề cao đức tin và không để những sắc dục phàm trần làm mờ đi sự thanh tịnh trong tâm hồn của mình.

Trong cuộc đối thoại, Thị Mầu nói nhiều hơn Kính Tâm, cho thấy tính hướng ngoại và vui vẻ của cô. Kính Tâm, trong khi đó, ít nói, kiệm lời, và dường như không muốn tiếp xúc với Thị Mầu. Khi Thị Mầu đến để chạm tay vào Kính Tâm trong khi nói chuyện, Kính Tâm phản ứng vô tình và chỉ nhắc nhở cô rằng cần quét chùa trước khi sư phụ trách mắng.

Từ cuộc gặp gỡ này, chúng ta có thể thấy sự đối lập giữa tính cách và cách nghĩ của hai nhân vật, Thị Mầu và Thị Kính.

Thị Mầu có quan niệm đơn giản về tình yêu, chỉ cần thích là có thể tiến tới. Nàng hướng tới sự hạnh phúc đơn giản bằng cách yêu cái đẹp và vượt qua các rào cản xã hội. Thị Mầu tỏ ra mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm và không ngại bộc lộ quan điểm và nhận xét của mình. Tính cách của Thị Mầu mang đến một làn gió mới cho hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

Kính Tâm, bị oan nghiêm cả đời với vu oan từ gia đình chồng, không còn quan tâm đến tình yêu nam nữ. Thay vào đó, nàng tìm thấy tình yêu trong việc yêu thương những nỗi khổ đau của con người, đặc biệt là những khổ đau của phụ nữ không được tự do và không có tiếng nói. Kính Tâm tìm đến Phật để tìm sự an ủi và hy vọng trong cuộc sống.

Chính sự trái ngược của Thị Mầu đối với Phụ nữ phong kiến nói chung và Thị Kính nói riêng đã khiến cho tiếng đế không ngần ngại bày tỏ trực tiếp quan điểm có phần tiêu cực về Thị Mầu: 

“Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi"

“Mầu ơi nhà mày có mấy chị em, có ai như mày không?"

“Dơ lắm! Mầu ơi!”

“sao lẳng lơ thế cô Mầu ơi"

Tiếng Đế đã chỉ trích và đánh giá Thị Mầu là một người con gái lẳng lơ, không biết phép tắc, không biết lễ nghĩa và không phù hợp với vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.

Qua đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" trong "Quan Âm Thị Kính", có thể khẳng định rằng văn bản này thuộc thể loại chèo. Văn bản tập trung vào việc giáo dục về cách sống và ứng xử của con người theo đạo lý dân gian. Có hai nhân vật đối lập, đào thương và đào lệch. Cấu trúc văn bản gồm nhiều màn và cảnh, mỗi cảnh có vai trò khác nhau. Trong lời thoại, xuất hiện ba nhân vật và tiếng đế, sử dụng ba hình thức: đối thoại, độc thoại và bàng thoại. Ngoài ra, lời thoại của các nhân vật trong văn bản cũng bao gồm cả múa và hát.

Tác phẩm "Thị Mầu lên chùa" nhằm khẳng định vẻ đẹp truyền thống và phẩm chất tốt đẹp của người con gái xưa thông qua nhân vật Thị Kính. Nàng không chỉ đẹp nết và ngoại hình, mà còn có lòng nhân từ, dung dị, chín chắn. Mặc dù gặp phải số phận bất hạnh, nhưng họ không bao giờ đánh mất sự trong sáng và cao quý trong tâm hồn. Nguyễn Du đã viết bài thơ "Độc Tiểu Thanh Ký" để thể hiện sự thương xót và đồng cảm với cuộc đời đáng tiếc của người con gái Tiểu Thanh. Tuy nhiên, văn bản cũng phản ánh những người phụ nữ mưu mô, xảo quyệt như Thị Mầu. Tác phẩm lên án, phê phán xã hội phong kiến đã vùi dập, kìm hãm và đối xử bất công tàn bạo đối với người phụ nữ.

Hy vọng với những bài văn mẫu "Phân tích Thị Mầu lên chùa" mà VOH Giáo dục tổng hợp giúp các em hiểu hơn về đặc sắc nghệ thuật của chèo cổ Việt Nam và số phận, khát vọng của người con gái Việt Nam xưa. 


Chịu trách nhiệm nội dung: GV Trương Thị Thuỳ

Tác giả: VOH

Tiếng đế thể hiện quan điểm như thế nào về nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa
Suy nghĩ của em về bản án mà Huyện Trìa đưa ra