Chờ...

Chỉ 27% hộ gia đình dùng muối i-ốt, thấp hơn 3 lần khuyến cáo của WHO

VOH - Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ sử dụng muối i-ốt trong các hộ gia đình Việt Nam chỉ đạt 27%, thấp hơn ba lần so với ngưỡng khuyến cáo là 90%.

Từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã ghi nhận sự thiếu hụt nghiêm trọng i-ốt trong cộng đồng, ảnh hưởng đến cả vùng núi, đồng bằng và vùng duyên hải. Điều tra dịch tễ học năm 1994 cho thấy 94% dân số Việt Nam sống trong khu vực thiếu i-ốt, với tỷ lệ trẻ em 8-12 tuổi mắc bướu cổ lên đến 22,4%, trong khi WHO khuyến cáo mức độ an toàn phải dưới 5%.

Trước tình hình này, vào năm 1999, chính phủ ban hành Nghị định bắt buộc sử dụng muối i-ốt trên toàn quốc, và sau sáu năm, tỷ lệ bao phủ muối i-ốt đạt trên 90%, giúp Việt Nam tạm thời đẩy lùi tình trạng thiếu i-ốt vào năm 2005.

Tuy nhiên, sự chuyển đổi chính sách vào năm 2005 đã không còn bắt buộc sử dụng muối i-ốt trong chế biến thực phẩm, dẫn đến tỷ lệ sử dụng muối i-ốt trong cộng đồng suy giảm. Điều tra năm 2014-2015 cho thấy, tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em đã tăng trở lại lên 8,3%, xác nhận tình trạng thiếu i-ốt quay trở lại, đặc biệt là ở các khu vực miền núi và duyên hải miền Trung. Đến nay, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 26 quốc gia trên thế giới đối diện với tình trạng thiếu i-ốt nghiêm trọng.

Bản sao của thumb liên cầu lợn (19)
Hộ gia đình sử dụng muối i-ốt đủ tiêu chuẩn chỉ chiếm 27%, trong khi khuyến cáo của WHO là phải trên 90% - Ảnh: SK&ĐS

Theo kết quả điều tra dinh dưỡng toàn quốc giai đoạn 2019-2020, trung vị i-ốt niệu của trẻ em trên 6 tuổi chỉ đạt 113,3 mcg/l và của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 98,9 mcg/l, đều dưới mức an toàn mà WHO khuyến cáo (100-199 mcg/l). Với tỷ lệ hộ gia đình sử dụng muối i-ốt chỉ 27%, Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thiếu i-ốt ở mức báo động, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ.

Để giải quyết tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là i-ốt, Việt Nam đã ban hành Nghị định số 09/2016/NĐ-CP, quy định muối ăn trực tiếp và muối dùng trong chế biến thực phẩm phải được tăng cường i-ốt. Đây là bước đi cần thiết nhằm cải thiện chất lượng dinh dưỡng của người dân, tuy nhiên hiệu quả thực tế cần được theo dõi chặt chẽ.

Báo cáo từ Bệnh viện Nội tiết Trung ương vào năm 2018 cho thấy, mức trung vị i-ốt niệu tại một số vùng sinh thái đã tăng, như Tây Nguyên đạt 118,5 mcg/l, song các khu vực khác như Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung vẫn còn ở dưới mức an toàn.

Để đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách, cần có các biện pháp tăng cường giám sát và đẩy mạnh chương trình truyền thông về lợi ích của việc sử dụng muối i-ốt trong sinh hoạt. Bộ Y tế cần phối hợp với các địa phương nhằm đảm bảo nguồn cung muối i-ốt đạt chuẩn và dễ tiếp cận, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi và vùng biển. Các chiến dịch truyền thông cộng đồng cũng cần được triển khai rộng rãi, giúp người dân nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của i-ốt đối với sức khỏe, giảm nguy cơ mắc các bệnh rối loạn do thiếu i-ốt.

Bên cạnh đó, việc thực hiện kiểm tra thường xuyên tại các cơ sở sản xuất và kinh doanh muối sẽ giúp đảm bảo chất lượng muối i-ốt, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Những nỗ lực phối hợp này là cần thiết để giảm thiểu các nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn và giúp Việt Nam sớm thoát khỏi nhóm các quốc gia thiếu i-ốt trên thế giới.