Những nữ tù Côn Đảo yêu nước ngày ấy – bây giờ

(VOH) - Những người may mắn sống sót trở về được nhìn thấy đất nước hòa bình và thống nhất. Nay, mỗi người một hoàn cảnh. Có người đã mất. Có người vẫn phải còng lưng làm đủ nghề mưu sinh trong những năm tháng cuối của cuộc đời.

Có những cuộc hội ngộ tay bắt mặt mừng, ôm chầm nhau thắm thiết, nhắc mãi những chuyện ngày xưa. Nhưng cũng có những cuộc hội ngộ rưng rưng nước mắt, chỉ có một phía tỉ tê tâm sự, chỉ nhìn thấy nhau qua những bức ảnh kỷ vật đã nhạt màu thời gian. Chiến tranh đã lùi xa, những nữ tù yêu nước tại nhà tù Côn Đảo năm xưa giờ tuổi đã cao, sức yếu, song họ luôn tâm niệm phải sống sao cho xứng đáng với những ngày tháng oanh liệt đã qua.

Nữ biệt động Sài Gòn Lê Thị Thu Nguyệt (bên tay trái)

Bị tra tấn tàn bạo nhưng không lung lay tinh thần

Người phụ nữ chúng tôi gặp tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, trong bộ quân phục màu xanh của một người lính có nụ cười hiền hậu. Không thể ngờ người phụ nữ ấy chính là nữ biệt động Sài Gòn Lê Thị Thu Nguyệt, với biệt danh “chim sắt” gắn với những trận đánh kinh thiên động địa năm xưa.

“Chim sắt” nay đã ngoài 70 kể, năm 1963, bà được giao nhiệm vụ gài mìn nổ chậm vào máy bay Boeing 707 chở 80 cố vấn Mỹ. Đội biệt động đã gài người vào làm nhân viên điều khiển không lưu ở sân bay Tân Sơn Nhất, Thu Nguyệt đóng vai tình nhân của đồng chí này, thường xuyên ra vào sân bay để bọn chúng quen mặt.

Ngày 25/3/1963, bà vào sân bay mang theo một gói thuốc nổ C4 cài đồng hồ hẹn giờ giấu trong chiếc vali, giống y hệt chiếc vali mà cố vấn Mỹ thường dùng. Khi khoác túi đến từ giã “người yêu”, bà đánh tráo chiếc vali. Theo kế hoạch, quả mìn sẽ nổ khi máy bay cất cánh 15 phút. Nhưng một điều mà bà chưa tính đến là khi máy bay lên cao, áp suất giảm nên đồng hồ chạy chậm lại.

Chiếc Boeing 707 hôm ấy chở 80 cố vấn Mỹ rời Sài Gòn đến San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu (Mỹ) khi đó mìn mới phát nổ. Mặc dù các cố vấn thoát chết nhưng vụ nổ đã gây chấn động lớn cho quân đội Mỹ lúc bấy giờ. “Tôi đánh một chiếc máy bay từ sân bay Tân Sơn Nhất về Honolulu nổ, sau đó được Bác Hồ điện, rồi đài BBC lên tiếng, còn Đài Giải Phóng, Đài Hà Nội nói về quân dân miền Nam không những đánh Mỹ ở Sài Gòn mà còn truy kích Mỹ tận sào huyệt” , Nữ biệt động Sài Gòn Lê Thị Thu Nguyệt kể.

Cũng năm 1963, trong khi chuẩn bị đi báo cáo thành tích tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua thì bà bị bắt. 19 tuổi, đeo trên mình bản án 20 năm khổ sai vẫn không làm nữ chiến sỹ lung lay tinh thần. Trải qua 11 năm bị địch tra tấn đủ mọi hình thức trong các nhà tù khét tiếng, từ nhà tù Sài Gòn, Chí Hòa đến địa ngục trần gian Côn Đảo...nhưng bà vẫn tin vào tương lai.

Ở trong chốn lao tù, bà tiếp tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình, phản đối địch. “Sau ba lần đi ra đảo, bọn địch nhốt tôi trong chuồng cọp, lúc mà điều tra ra là nhốt chung với con gấu, hồi đó tưởng đâu con gấu sẽ cắn xé mình, nhưng nó có một hàng sắt để che thì con gấu làm sao bắt mình được. Sau đó, tôi chống chào cờ, chống tố cộng rồi chúng lại đày ra Côn Đảo. Khi được trao trả về Lộc Ninh thì tôi lại tham gia bên đối ngoại của hiệp định Paris”, bà Thu Nguyệt cho biết.

Dấn thân không sợ tù đày, hy sinh

Những nữ tù nhân Côn Đảo ngày ấy giờ lưng đã còng, tóc đã bạc. Nhưng những ký ức một thời hào hùng, gian khổ, hy sinh và cả sự lãng mạn, vẫn như mới hôm qua. Họ đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc. Ngoài “chim sắt” - Lê Thị Thu Nguyệt,  còn có bà Cao Ngọc Quế, quê ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang - nguyên Giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Người con gái chưa đến tuổi 20 ngày ấy, giờ đã là bà lão ở tuổi 90, tấm lưng gầy vì tuổi tác của bà đã còng đến mức không thể còng thêm, mái tóc bạc trắng.

Bà Cao Ngọc Quế giới thiệu bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ cho du khách người Pháp

Bà chậm rãi kể: năm 19 tuổi, khi đang học khóa sư phạm cấp I tỉnh Tiền Giang, theo tiếng gọi của Đảng, bà xếp bút nghiên đi hoạt động cách mạng. Suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà bị địch bắt giam 3 lần. Một lần thực dân Pháp bắt giam và tra tấn tại nhà tù Ca-ti-na, hai lần bị Mỹ đày đi Côn Đảo, tổng cộng lên tới hơn 11 năm ở tù. Cô con gái 5 tuổi cũng bị bắt theo, tra điện, đánh đập, tra tấn… ngay trước mắt người mẹ trẻ để hòng khuất phục nữ chiến sĩ. Nhưng bà Quế luôn xác định, đời cách mạng “dấn thân vô là phải chịu tù đày”, là hy sinh, là mất mát, để bản thân không bị lung lay, gục ngã, dù trong lòng thì như dao rạch ngang lồng ngực. “Khi đưa vào trại giam thì bị bọn địch đàn áp tập thể, lựu đạn cay nó ném vô trong phòng sau đó lôi mình ra đánh. Do không muốn trao trả mình cho Chính phủ nên nó biến mình từ tù chính trị thành thường án để làm bản án mới. Hồi đó bọn chúng nói là miền Nam này không có tù chính trị cho nên xóa tù chính trị và coi mình là tù thường phạm để tha hồ đàn áp”, nguyên Giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ - Cao Ngọc Quế nhớ lại những ngày bị địch tra tấn.

Là trưởng đoàn của Đội văn nghệ cựu nữ tù chính trị TP.HCM, bà Đặng Hồng Nhựt (77 tuổi), theo mẹ đi làm giao liên từ năm 11 tuổi, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, không có một món đòn roi hiểm độc nào của địch mà bà chưa từng trải qua. Năm 1966, khi đang hoạt động mật trong vai của một tiểu thương bán đồ chơi trẻ em tại chợ Bà Chiểu, bà bị chỉ điểm và bị giặc bắt. Từ đó, gia đình ly tán. 7 năm tại tù Côn Đảo là chuỗi những tháng ngày nơi địa ngục trần gian. Lúc nào buồn là bọn chúng lại lôi bà ra đánh, tra khảo, đủ những đòn tra tấn, đánh cho chết đi sống lại…bà nói rằng, những tháng năm bị tra tấn ngục tù không làm bà chùn bước, sợ hãi, dù có phải đối mặt với cái chết đi nữa: “Phải nói là truyền thống đã ăn sâu vào mình từ nhỏ vì gia đình tôi ông ngoại và mẹ tôi đã từng ở tù, cha tôi bị chúng bắt đi tù rồi thủ tiêu trong nhà tù. Cho nên tôi được nghe bà già kể lại hồi đó trong nhà tù bị chúng đánh đập ra làm sao. Rồi trong nhà tù mấy cụ sinh hoạt với nhau cũng ca hát, thêu thùa và học hành này kia, cho nên mình đã được truyền lửa từ nhỏ, nghe những câu chuyện của người lớn cho nên mình cũng theo đó mà làm”.

Còn cô bé Lan đèo, tên thật là Nguyễn Thị Bé Bảy, theo cách mạng khi mới 16 tuổi, giờ đã ngoài 70. Ngày ấy, nhìn cảnh giặc đàn áp nhân dân mà ức quá, rồi một lần tình cờ gặp được đầu mối cách mạng. Bà tham gia đấu tranh chính trị ngăn giặc càn quét, đánh phá vào làng. Hai năm sau trong cuộc đấu tranh chống càn quét, bà đã ngăn cản thành công rồi được tham gia binh vận, đấu tranh trong lòng địch. Sau đó bà bị bắt. Chúng tra tấn rất dã man, đến bây giờ bà vẫn còn ám ảnh. Tại đây, bà cùng một số nữ tù chính trị khác bị xếp vào loại cứng đầu và khó trị. Thế nên, với bà lúc nào cũng gần như là người chịu cực hình nặng nề nhất. Đó là những trận đòn thập tử nhất sinh của địch, hòng lung lạc tinh thần của những chiến sĩ cách mạng. Nhưng chúng đã lầm, ở nơi đó sức mạnh của tình đồng chí mà các cựu tù đã dành cho nhau đã tạo nên động lực mãnh liệt, không nao núng trước những trận đòn thù, các chiến sĩ vẫn kiên trung bất khuất. Bà kể: “Nó (địch) treo lên, bịt mặt rồi đá đấm, đánh hết đi nổi. Lúc đó tôi hết biết là nó đánh bằng cái gì. Khi mở mắt ra thì thấy nằm trong cái cát xô biệt lập và ghi là kỷ luật vô thời hạn. Nó cho ăn thì trộn cơm với xương, có bữa thì có độc”.

Những nữ tù Côn Đảo trong một dịp họp mặt

Gần 2.000 người đã anh dũng hi sinh và nằm lại dưới nghĩa trang Hàng Dương cùng hàng chục ngàn hương hồn của những người đã vĩnh viễn hòa thân thể mình vào lòng đất Côn Đảo trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Những người may mắn sống sót trở về được nhìn thấy đất nước hòa bình và thống nhất. Nay, mỗi người một hoàn cảnh. Có người đã mất. Có người vẫn phải còng lưng làm đủ nghề mưu sinh trong những năm tháng cuối của cuộc đời. Với nhiều người trong số họ, ước mơ bình dị về một mái ấm gia đình đã mãi mãi không trở thành hiện thực. Đôi khi may mắn tìm lại được đồng đội năm xưa, họ cùng ôn lại những ngày tháng đấu tranh kiên cường bất khuất trước muôn vàn tội ác và sự tàn khốc của kẻ thù, rồi những kỷ niệm với đồng đội, đồng chí, cùng động viên nhau không bao giờ khuất phục trước bao nhiêu cực hình tra tấn...bởi họ chính là những cựu nữ tù Côn Đảo ngược dòng năm xưa nay đã trở thành nhân chứng lịch sử hào hùng của dân tộc. Nay họ vẫn tiếp tục cuộc sống bình dị, đời thường thật đáng khâm phục và nể trọng.

Bình luận