TTXVN đưa tin, Cục Thống kê chủ trì, phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức Hội thảo công bố các kết quả nghiên cứu chuyên sâu, được xây dựng từ Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ và Điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số, với ba báo cáo nổi bật.
Hội thảo đồng thời là diễn đàn để các cơ quan quản lý, chuyên gia và đối tác phát triển trao đổi, thảo luận các phát hiện chính, làm rõ hàm ý chính sách và thúc đẩy việc khai thác, sử dụng hiệu quả dữ liệu thống kê trong quản trị quốc gia.
Phát biểu khai mạc, bà Đỗ Thị Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Thống kê cho biết các kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thống kê quan trọng phục vụ đánh giá thực trạng và điều chỉnh chính sách phát triển vùng, đô thị, thị trường lao động và phân bố dân cư. Theo bà, các kết quả nghiên cứu tiếp tục khẳng định vai trò của dữ liệu thống kê và bằng chứng khoa học trong xây dựng chính sách dân số, lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững.
Trình bày báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024–2074”, ông Nguyễn Huy Minh, Phó Trưởng ban Ban Thống kê dân số và lao động, Cục Thống kê cho biết báo cáo cung cấp bức tranh toàn diện về xu hướng biến đổi quy mô, cơ cấu dân số theo tuổi, giới tính và phân bố dân cư của Việt Nam trong nửa thế kỷ tới. Kết quả dự báo cho thấy dân số Việt Nam tiếp tục tăng nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình, trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định.
Trong giai đoạn 2024–2074, dân số Việt Nam theo ba kịch bản mức sinh thấp, trung bình và cao sẽ tăng thêm lần lượt 2,5%, 12,7% và 17,0%, tương ứng đạt 103,9 triệu, 114,2 triệu và 118,5 triệu người. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng dự kiến khép lại vào năm 2036, nhường chỗ cho giai đoạn dân số già và siêu già, với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh được dự báo tiếp tục kéo dài đến giữa thế kỷ 21, trong khi quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra nhưng có xu hướng chậm lại khi tỷ lệ dân số thành thị tiệm cận ngưỡng 50%.
Đối với báo cáo “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009–2024”, Cục Thống kê cho biết quy mô di cư nội địa giảm từ khoảng 6,4 triệu người giai đoạn 2014–2019 xuống còn khoảng 3,8 triệu người giai đoạn 2019–2024. Di cư thành thị–thành thị chiếm trên 70%, phản ánh xu hướng người dân lựa chọn các đô thị khác để sinh sống. Đáng chú ý, số người di cư là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ giảm nhẹ, làm tăng tỷ trọng của nhóm này trong tổng số người di cư.
Báo cáo “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” cho thấy tỷ lệ không biết chữ ở các dân tộc thiểu số nói chung là 15,1%, trong khi ở các dân tộc rất ít người, dưới 10.000 người, tỷ lệ này lên tới 32,8%, cao hơn nhiều so với nhóm dân tộc có quy mô dân số lớn hơn là 13,3%. Các khó khăn về hạ tầng, điều kiện vệ sinh, trình độ học vấn và tình trạng kết hôn sớm được xác định là những yếu tố chồng lấp, làm gia tăng bất lợi đa chiều.
Tại hội thảo, các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách can thiệp tổng hợp, linh hoạt, có tính đến đặc thù từng dân tộc, nhằm bảo đảm phát triển bền vững, bao trùm và nâng cao chất lượng sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.

