Huyền Trân công chúa và cuộc hôn nhân với vua Chế Mân giúp nước Nam mở rộng bờ cõi

(VOH) – Trong lịch sử, Việt và Chăm từng có mối quan hệ giao hảo khắn khít, khi ấy công chúa nước Nam Huyền Trân được gả cho vua Champa Chế Mân.

Huyền Trân công chúa (1287 – 1340) là công chúa nhà Trần, con gái vua Trần Nhân Tông, em gái vua Trần Anh Tông. Huyền Trân được xem là vị công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Nam, góp công không nhỏ trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi.

Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) mời sang du ngoạn, Thái thượng hoàng nhận lời và đến ở trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Tại đây vua Chế Mân tiếp đãi Thái thượng hoàng vô cùng chu đáo, Trần Nhân Tông lấy làm cảm mến và sẵn vốn đã khâm phục sự lỗi lạc của vua Champa từ lâu nên hứa gả con gái cho.

Chế Mân là một bậc anh tài, khi còn là thế tử vua từng theo cha là vua Indravarman V chống quân xâm lược Mông Cổ. Sau khi lên ngôi Chế Mân xây dựng nhiều đền đài nguy nga và gây dựng cuộc sống ấm no, hưng thịnh cho người dân Champa. Vua Chế Mân trị vì Champa được 19 năm, tiếng tăm lẫy lừng khắp vùng Đông Nam Á.

Sau khi Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông về nước, vua Chế Mân nhiều lần cử sứ sang cầu hôn, các quan viên nhà Trần lên tiếng phản đối duy chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung tán thành chuyện hoà thân này.

Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm thứ 14 (1306), tháng 6, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân công chúa khi ấy 18 tuổi cho Chúa Chiêm Thành, đổi lấy Chế Mân sẽ dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm sính lễ. Vua Trần Anh Tông đặt tên Ô Châu là Thuận Châu (nay là một phần Quảng Trị), Lý Châu là Hóa Châu (nay là Thừa Thiên). Huyền Trân công chúa trở thành Vương hậu thứ 2 của Chiêm Thành với phong hiệu là Paramecvari.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-hon-nhan-voi-vua-che-man-voh-1
Để cưới Huyền Trân công chúa vua Chế Mân dâng sính lễ là hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý)

Năm Đinh Mùi (1307), tháng 5, vua Chiêm Thành Chế Mân băng hà chỉ sau một năm Huyền Trân công chúa được phong Vương hậu. Theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa thiêu để tuẫn táng cùng. Lo lắng cho an nguy của em gái, vua Trần Anh Tông cử Hành khiển Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang mà tìm cách đưa công chúa về nước. May mắn thay cuộc tẩu thoát đã thành công, Trần Khắc Chung đưa được công chúa xuống thuyền, bằng đường biển trở về nước Nam, cuộc hành trình này kéo dài 1 năm.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-hon-nhan-voi-vua-che-man-voh
Tượng thờ Huyền Trân công chúa tại Huế

Công chúa về đến kinh thành Thăng Long thì xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh), lấy pháp danh là Hương Tràng.

Năm Tân Hợi (1311) Hương Tràng cùng một thị nữ đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau này nơi đó trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.

Năm Canh Thìn (1340), mồng 9, tháng Giêng, Huyền Trân công chúa qua đời, dân chúng tiếc thương lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn, tôn bà là Thánh Mẫu. Ngày giỗ hằng năm của bà trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.