Việt Nam kỳ thú: Nghề đan đó – Lặng thầm gìn giữ hồn sông nước Việt

VOH - Không cần công nghệ, không cần hào nhoáng chỉ với đôi tay người dân đã biến từng nan tre thành nghệ thuật sống.

Chỉ cách Hà Nội khoảng một giờ xe chạy, làng Thủ Sỹ (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) hiện ra như một thước phim quay chậm. Nơi có tiếng dao vót tre lách cách, có mái ngói rêu phong, có hương đồng thoảng gió và đặc biệt có một nghề đã tồn tại hơn 200 năm: nghề đan đó.

Cùng Việt Nam kỳ thú đến đây để “xem” nghề, chạm tay vào lịch sử, chạm vào nhịp sống thôn quê đã được gìn giữ bằng cả một thế hệ.

“Đó” là gì – Một biểu tượng thầm lặng của miền sông nước

Trong tiếng gọi thân quen, giản dị của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, “đó” là tên gọi của một loại ngư cụ truyền thống. Có câu ca dao xưa nhắc đến “Cá vào đó thì khó mà ra” với dáng dài, hình phễu được đan bằng tre hoặc nứa, miệng lớn và thu nhỏ dần về đuôi, bên trong được thiết kế với các khe và nan chắn tinh tế khiến cá, tôm khi đã lọt vào thì khó lòng thoát ra.

Không cần mồi nhử, không cần kỹ thuật đánh bắt cầu kỳ, chiếc đó dựa vào tính toán dòng nước, thói quen di chuyển của loài cá, tôm, đặt đúng thời điểm – cá tự trôi vào như một phép màu giản dị mà hiệu quả. Đó là minh chứng cho trí tuệ dân gian kết hợp với sự quan sát tự nhiên, tinh tế đến từng chi tiết.

Ở Thủ Sỹ, “đó” không dừng lại ở vai trò là công cụ lao động. Nó như một khoảnh ký ức sống, lưu giữ hình ảnh những người đàn ông vai vác đèn, tay xách đó, băng qua ruộng nước khi trời nhá nhem tối. Đêm xuống, cả cánh đồng ngập nước lấp lánh ánh đèn dầu; sáng sớm từng chiếc đó được nhấc lên trong làn sương mờ, cá tôm tươi rói quẫy mình như gửi lời chào ngày mới.

Chiếc đó trở thành nhân chứng lặng thầm cho một nhịp sống gắn liền với mùa vụ, thủy triều, con nước lên xuống. Đó cũng là ký ức tuổi thơ của bao người con làng Thủ Sỹ – khi còn bé đã theo cha ra đồng, hí hửng ngồi chờ xem “có con nào mắc bẫy không” rồi cười rạng rỡ khi nhấc được một chiếc đó nặng tay, tràn cá rô, cá diếc.

Từ thân tre thành chiếc “đó”

Ở Thủ Sỹ, mỗi chiếc “đó” không chỉ là sản phẩm của bàn tay người thợ mà là kết tinh của hàng chục bước công phu, hoàn toàn thủ công, nơi từng đường đan, từng mắt lưới đều chứa đựng sự cần mẫn, kinh nghiệm và niềm tự hào làng nghề.

Công đoạn đầu tiên là chọn tre, một khâu đòi hỏi con mắt nghề lão luyện. Tre phải là loại tre già, chắc, thẳng thân, không sâu mọt thường được lấy từ các huyện miền núi như Văn Chấn, Yên Bái hay rừng tre Hòa Bình. Chỉ có loại tre đã “chín” đủ năm, có độ dẻo và độ bền tự nhiên mới đủ tiêu chuẩn để vót thành nan mà không bị giòn gãy hay mốc mục theo thời gian.

Kỹ thuật đan đó đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mỉ của người thợ. Ảnh: Hà Nội mới

Sau khi chặt về, tre được chẻ nhỏ thành từng nan dài và vót mỏng đều tay, mỗi nan chỉ mảnh như tăm nhưng phải đều, mềm và không xơ. Tiếp đến là bước ngâm nước để nan tre dẻo, chống nứt nẻ và tăng độ bền khi đan. Rồi người thợ uốn cong khung, đan dọc, đan ngang, dựng miệng, thu đuôi từng thao tác đều phải chính xác đến từng ly để tạo ra dáng “đó” cong mềm nhưng bền chắc, đồng thời không làm cá lọt ra khi sử dụng.

Một chiếc đó hoàn thiện thường mất từ 2 đến 4 giờ làm việc liên tục, tùy vào tay nghề và độ phức tạp. Có những loại “đó mẹ - đó con” dùng bắt cá lớn nhỏ khác nhau, người thợ phải điều chỉnh kích thước nan, khoảng cách mắt đan và độ co giãn khung tre một cách linh hoạt.

Chiếc đó đã trở thành nét văn hóa của người dân nơi đây. Ảnh: Dân Trí

Bước chân vào Thủ Sỹ, bạn như lạc vào bức tranh đồng quê sống động: bó tre phơi vàng rực bên bờ ao, tiếng vót tre “cách… cách…” vang vọng như giai điệu cổ xưa trải dài từ sân nọ sang sân kia. Những bàn tay thợ già, tóc bạc phơ, vẫn thoăn thoắt đan đó, chẳng cần nhìn, bởi kỹ thuật đã thấm vào máu thịt như nhịp thở đời thường.

Cả không gian ấy, mùi tre mới, tiếng tre reo, ánh mắt hiền hậu, hoà quyện thành một bản giao hưởng làng nghề đầy xúc cảm. Mỗi chiếc “đó” trở thành dấu ấn của văn hóa, là sợi dây nối liền quá khứ và hiện tại bằng chính bàn tay và ký ức của người dân Thủ Sỹ.

Làng nghề hơn 200 tuổi

Theo lời các bậc cao niên trong làng kể lại, nghề đan đó ở Thủ Sỹ đã bén rễ từ thời vua Gia Long – hơn hai thế kỷ trước. Từ một ngư cụ dân dã, chiếc “đó” từng bước trở thành linh hồn của làng nghề. Cứ thế cha truyền con nối, nghề đan đó len lỏi qua từng nếp nhà, từng thế hệ lớn lên trong tiếng tre kêu lách cách, bàn tay thoăn thoắt giữa những ngày nắng gió.

Chiếc xe đạp chở đầy những chiếc đó đẹp mắt. Ảnh: vntravellive

Thời hoàng kim, cả làng Thủ Sỹ như một đại xưởng thủ công khổng lồ. Gần 300 hộ đan đó rộn ràng suốt ngày đêm, sản phẩm theo thuyền xuôi dòng sông Luộc, vượt sông Hồng, tỏa đi khắp miền Bắc, rồi ngược ra cả miền Trung mang theo cả hồn vía của một làng nghề mộc mạc.

Ngày nay, dù nghề đan đó không còn sôi động như xưa nhưng vẫn có gần 500 người gắn bó, chủ yếu ở hai thôn Tất Viên và Nội Lăng. Với họ, mỗi chiếc đó đan ra là một cách sống chậm giữa thời hiện đại hối hả, là cách níu giữ những điều giản dị đã làm nên bản sắc. Giữ nghề, không chỉ là giữ một kế sinh nhai mà là giữ lấy một phần hồn làng, thứ không thể thay thế bằng bất kỳ cỗ máy nào.

Từ ngư cụ thành “chất liệu nghệ thuật”

Từng là vật dụng gắn liền với những buổi úp đó đêm trăng, giờ đây, chiếc “đó” của làng Thủ Sỹ đã bước ra khỏi lũy tre làng mang theo mình một diện mạo hoàn toàn mới. Những sản phẩm đan tay tinh xảo nay khoác lên lớp áo văn hóa trở thành chất liệu nghệ thuật độc đáo trong đời sống hiện đại.

Cụ Lương Sơn Bạc đã ngoài tuổi bát tuần và có hơn 70 năm kinh nghiệm đan đó. Ảnh: qdnd.vn

Chiếc đó hiện diện trong không gian sống như một món đồ trang trí nội thất mang đậm chất mộc mạc và thiền vị. Nó được giới kiến trúc sư ưa chuộng để tạo điểm nhấn cho các quán cà phê, homestay mang phong cách “xanh” và “vị quê”. Trong ngành phim ảnh, đó xuất hiện như một phụ kiện đậm chất thời gian, góp phần tạo dựng không khí xưa cũ cho các bộ phim cổ trang, phim ký ức làng quê Việt.

Những sản phẩm từ tre, nứa được ưa chuộng. Ảnh: vntravellive

Đặc biệt nhiều sản phẩm còn được sáng tạo lại thành quà lưu niệm thủ công, mang hồn Việt vươn xa tới tận các thị trường như Nhật Bản, Ấn Độ, Hoa Kỳ… Những chiếc “đó mini”, đèn tre, giỏ tre được khách nước ngoài ưa chuộng bởi tính biểu tượng và vẻ đẹp truyền thống, gói gọn cả một lát cắt văn hóa Việt trong từng sợi tre nhỏ.

Sự “lột xác” ấy cho thấy khả năng thích ứng đáng kinh ngạc của một làng nghề cổ, minh chứng cho tư duy làm nghề đầy sáng tạo của người dân Thủ Sỹ: biết trân trọng giá trị cũ, nhưng không ngại làm mới để bắt kịp hơi thở thời đại.

Đưa làng nghề lên bản đồ du lịch

Cái nôi của nghề đan đó trăm năm tuổi, Thủ Sỹ hôm nay đang từng bước được “đánh thức” như một điểm đến du lịch trải nghiệm đặc sắc giữa lòng đồng bằng Bắc Bộ.

Du khách khi đến đây không chỉ được ngắm nhìn mà còn trở thành một phần của làng nghề: tự tay vót nan, đan thử chiếc đó cùng nghệ nhân, lắng nghe câu chuyện đời nghề bên ấm trà nóng dưới mái hiên tre.

Các du khách đến tham quan và có thể trải nghiệm làm trực tiếp. Ảnh: Báo Hưng Yên

Dạo quanh những con ngõ làng xanh rợp bóng tre, người ta dễ bắt gặp khung cảnh thơ mộng của hàng trăm chiếc đó được treo dọc sân, phơi mình dưới nắng chiều tạo nên bức tranh Bắc Bộ xưa sống động và độc nhất vô nhị, rất “ăn ảnh” cho những ai mê khám phá và lưu giữ khoảnh khắc.

Không dừng lại ở khách du lịch, Thủ Sỹ còn là nơi lý tưởng cho các chương trình giáo dục truyền thống. Học sinh thành phố được về làng học cách vót tre, đan đó, nghe chuyện ông bà kể về nghề cổ như một hình thức “học qua trải nghiệm” giúp thế hệ trẻ thêm hiểu, thêm yêu và biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian.

Các cụ "lành nghề" hướng dẫn cho khách tham quan về cách đan đó. Ảnh: hungyentourism

Từ một làng nghề lặng lẽ bên dòng sông Luộc, Thủ Sỹ đang vươn mình trở thành một lát cắt di sản sống, nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện trong từng sợi tre, từng câu chuyện đời thường mà sâu sắc.

Bình luận