Hoạt động do Group Vật liệu Xây Miền Nam tổ chức.
Ông Đinh Quang Huy - Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ Xây dựng Việt Nam đánh giá, Group Vật liệu Xây Miền Nam là tổ chức được sự ủng hộ của đông đảo các nhà sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực gốm sứ, xây dựng, vật liệu, cùng gắn kết, trao đổi cơ hội, hợp tác kinh doanh trên các lĩnh vực. Hiện gốm sứ xây dựng Việt Nam đang đứng thứ tư sau Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, doanh số hàng năm của các doanh nghiệp Việt Nam đạt tới khoảng 3 tỷ đô la Mỹ, xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 500 triệu đô la Mỹ. Đây là một ngành kinh tế lớn đem lại việc làm cho hàng ngàn lao động, đóng góp vào GDP của nền kinh tế đất nước.
Đến cuối năm 2020, lượng xi măng tiêu thụ đạt 74 triệu tấn, kính xây dựng đạt 171 triệu m2, sứ vệ sinh đạt 12,8 triệu sản phẩm, đá ốp lát đạt 12 triệu m2, gạch ốp lát đạt 452 triệu m2, vôi công nghiệp đạt 1,5 triệu tấn, tấm lợp fibro xi măng đạt trên 33 triệu m2... Đối với lĩnh vực vật liệu xây dựng không nung, việc đầu tư, sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng không nung đã có sự chuyển biến tích cực; các công nghệ mới, thiết bị mới sản xuất được đầu tư, phát triển và các sản phẩm vật liệu xây dựng không nung đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường.
“Người dân đang ngày càng khắt khe trong lựa chọn sản phẩm, muốn dùng sản phẩm tốt và uy tín hơn, do đó chúng tôi đã đầu tư những trang thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu cao cấp để đáp ứng nhu cầu tốt hơn. Ngoài vấn đề nguyên vật liệu, thiết bị hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới, chúng tôi còn tăng thêm dây chuyền nhập khẩu, không giảm giá thành, chất lượng. Năm 2021, tin rằng Chính phủ sớm có vắc xin triệt để về dịch Covid-19 thì thị trường sẽ tốt hơn”, ông Đỗ Lai Trung, Phó Chủ tịch Đối ngoại Group Vật liệu Xây Miền Nam chia sẻ.
Đặc biệt, sau 10 năm thực hiện Chương trình 567 Phát triển vật liệu xây dựng không nung theo Quyết định số 567, tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm chính là gạch bê tông, gạch bê tông khí chưng áp và gạch bê tông bọt đến năm 2020 đạt khoảng hơn 10 tỷ viên/năm.
Mặc dù vậy, hiện nay, các doanh nghiệp chỉ phát huy được trên 40% công suất thiết kế, sản lượng sản xuất đạt khoảng 5 tỷ viên, chiếm trên 25% so với tổng sản lượng vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đã tiết kiệm được khoảng 7,5 triệu m3 đất sét, tương đương 375 hecta đất khai thác ở độ sâu 2 m, giảm tiêu thụ khoảng 750.000 tấn than và giảm thải ra môi trường khoảng 2,85 triệu tấn CO2. Đây là kết quả ấn tượng góp phần giảm thải gây ô nhiễm môi trường và giảm quá trình suy giảm diện tích đất nông nghiệp.
Dù còn nhiều thách thức nhưng dự báo năm 2021, ngành Vật liệu Xây dựng sẽ đứng trước hai nguồn cầu lớn: khắc phục sự cố lũ lụt ở miền Trung và sạt lở ở miền núi cần đến số lượng lớn vật liệu xây dựng; Thị trường bất động sản đang có chiều hướng phục hồi tốt, dẫn đến đầu tư bất động sản gia tăng, kéo theo việc sử dụng vật liệu xây dựng vào các công trình tăng lên. Thực tế này cho thấy, năm 2021, thị trường vật liệu xây dựng sẽ sôi động vì nguồn cầu đang chờ nguồn cung.
Theo lãnh đạo Bộ Xây dựng, ngành Vật liệu Xây dựng cần ưu tiên đầu tư các dự án sản xuất vật liệu xây dựng mới, các dự án công suất lớn sử dụng công nghệ tiên tiến; Các dự án sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng khối lượng lớn chất thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và rác thải sinh hoạt; Kết hợp việc sử dụng khoáng sản tự nhiên với việc sử dụng vật liệu tái chế đồng thời tận dụng tối đa tro, xỉ, thạch cao phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón và các cơ sở công nghiệp khác làm nguyên liệu, phụ gia sản xuất vật liệu xây dựng.
Ngày 18/8/2020, tại Quyết định 1266, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Chiến lược phát triển Vật liệu Xây dựng Việt Nam giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2050. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển ngay từ đầu năm 2021.
Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025, các nhà máy xi măng hiện có công suất nhỏ hơn 2.500 tấn clanke/ngày, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và năng lượng lớn, phải đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.
Đối với kính xây dựng, tiếp tục đầu tư sản xuất các sản phẩm kính có chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao như: Kính tiết kiệm năng lượng, kính siêu trắng, siêu mỏng, kính cho pin năng lượng, kính chống cháy...; Đầu tư chiều sâu cải tạo các cơ sở sản xuất kính có công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu, năng lượng và chất lượng sản phẩm thấp, đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu về công nghệ và môi trường…
Để đạt được những mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 7 giải pháp gồm: Hoàn thiện thể chế, chính sách; Khai thác tài nguyên khoáng sản hiệu quả, tiết kiệm; Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ; Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng trong nước và xuất khẩu; Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Nâng cao năng lực chế tạo thiết bị; Bảo vệ môi trường trong sản xuất.