Trong 6 tháng đầu năm 2024, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường Việt Nam tiếp tục gia tăng đáng kể, với hơn 71,4 ngàn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước.
Lý do khiến doanh nghiệp khó trụ lại thị trường
Nhiều đại biểu băn khoăn: Tăng trưởng GDP phục hồi, vậy tại sao số doanh nghiệp rời thị trường vẫn cao hơn số thành lập mới? Mặc dù số doanh nghiệp thành lập mới vượt ngưỡng trung bình 2 năm gần đây, song số doanh nghiệp rút lui tăng cao
Trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn đã đạt 71,4 ngàn doanh nghiệp, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân mỗi tháng có gần 18,4 ngàn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Không chỉ có số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng lên, mà số liệu từ Tổng cục Thống kê cũng cho thấy số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt gần 80,5 ngàn doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký là 744,2 ngàn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 512 ngàn lao động, tăng 6,1% về số doanh nghiệp, 5,2% về vốn đăng ký và 0,4% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.
Một trong những nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường là do sự kiệt quệ sau đại dịch COVID-19, cùng với những biến động bất thường của nền kinh tế, sự sụt giảm tiêu dùng, và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh chưa đem lại hiệu quả triệt để.
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung, khó khăn tiếp diễn trong nhiều lĩnh vực, như bất động sản, ngành hàng không, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, nhu cầu mua sắm giảm sút do người dân thắt chặt chi tiêu, dẫn đến sự phục hồi chậm của sản xuất công nghiệp – động lực tăng trưởng chính của đất nước.
Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, kinh tế Việt Nam năm 2024 dự báo sẽ đan xen cả thuận lợi và khó khăn. Những thuận lợi từ năm 2023 tiếp tục kéo dài, nhưng kinh tế vẫn phải đối mặt với những thách thức, trong đó một trong những rào cản lớn nhất là tác động tiêu cực từ bên ngoài, nhất là đà tăng trưởng chậm lại của Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Hoạt động của các doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do đã ký kết là những giải pháp cần thiết.
TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược cạnh tranh và thương hiệu, nhận định rằng nút thắt cần được gỡ nằm ở bài toán xây dựng niềm tin. Ông nhấn mạnh vai trò của chính quyền trong việc quyết liệt thực hiện các giải pháp thay vì chỉ hứa hẹn. Niềm tin giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư kinh doanh, giúp người tiêu dùng bớt e dè trong chi tiêu, tạo trợ lực cho nền kinh tế, tăng cường hiệu lực các chính sách tài khóa, tiền tệ nghịch chu kỳ.
Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp từ Chính phủ và địa phương
Trong bối cảnh đầy rẫy khó khăn, các chuyên gia đều nhất trí rằng cần có các giải pháp quyết liệt để hỗ trợ doanh nghiệp. TS. Cấn Văn Lực đề xuất chú trọng các động lực tăng trưởng truyền thống và phát huy, khai thác các động lực tăng trưởng mới. Cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do và các quan hệ đối tác chiến lược. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công hiệu quả, kích cầu đầu tư tư nhân và tiêu dùng nội địa cũng là những biện pháp quan trọng.
Thứ trưởng Đỗ Thành Trung cho biết, cần phải cải cách các cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính bất cập, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Các quy định như tăng cường iod vào thực phẩm, quy định về phòng cháy chữa cháy hay quản lý thuế đối với giao dịch liên kết cần được sửa đổi một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã cho biết, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Kinh tế trong nước còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc cần khắc phục.
Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thời gian tới, bà Nguyễn Thị Hương cho biết, các bộ ngành cùng thực các giải pháp, trong đó ưu tiên cho tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Ngành ngân hàng điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác.
Bên cạnh đó, tăng cường quản lý giá cả, thị trường; bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng.
Sự gia tăng số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 6 tháng đầu năm 2024 đặt ra nhiều thách thức và cũng mở ra cơ hội cho các biện pháp cải cách và hỗ trợ doanh nghiệp. Để vượt qua giai đoạn khó khăn này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong việc xây dựng niềm tin, cải thiện môi trường kinh doanh, và thực thi các giải pháp hỗ trợ một cách hiệu quả. Chỉ khi đó, doanh nghiệp mới có thể hồi phục và phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.