Thay mặt Hội Xuất Bản Việt Nam, chủ tịch Hội, ông Đỗ Quý Doãn vừa ký văn bản gửi đến Ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Ban Tuyên giáo trung ương,các bộ ngành chức năng và Ban soạn thảo bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015) kiến nghị sửa đổi BLHS 2015 theo hướng không hình sự hóa các hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm không đáng kể cho xã hội.
Theo bản kiến nghị Điều 225 và Điều 344 BLHS 2015 hình sự hóa các hành vi vi phạm chỉ mang tính chất thủ tục hành chính hay nghiệp vụ của ngành xuất bản đã tạo ra sự mâu thuẫn ngay chính trong bộ luật mà tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể. Kiến nghị dựa theo khoản 2 điều 8 BLHS 2015 qui định “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Theo kiến nghị nếu cứ áp dụng những bất cập tồn tại trong các quy định đối với hoạt động xuất bản của Bộ luật hình sự 2015 vào thực tiễn, sẽ dễ tạo ra sự lạm quyền và gây nên sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Mặt khác, với những quy định này, từ những người hành nghề, cụ thể là biên tập viên, trưởng ban biên tập, giám đốc các nhà xuất bản đến các công ty phát hành và các đơn vị in sẽ rơi vào tâm trạng lo âu, e ngại, thậm chí sợ hãi trong quá trình tác nghiệp hoặc bỏ nghề.
Mặt khác, khi đã quy định trong luật nhưng không thể xử, lý do không có căn cứ rõ ràng sẽ dẫn đến coi thường pháp luật hoặc lạm quyền khi tiến hành xét xử.
|
Điều 344 của BLHS 2015 hiện đang được lùi thời hạn thi hành: “Điều 344. Tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản 1. Người nào vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù 03 tháng đến 02 năm:
đ) Phạm tội có số lượng xuất bản phẩm dưới mức quy định tại một trong các điểm b hoặc điểm c khoản này, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại điểm b và c khoản này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; e) Không nộp xuất bản phẩm lưu chiểu nhưng vẫn phát hành xuất bản phẩm, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 117 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh đã có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản để xuất bản có nội dung bị cấm theo quy định của Luật xuất bản; c) Phát hành xuất bản phẩm có nội dung bị cấm theo quy định của Luật xuất bản. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” |
Hình minh họa
|
Hội Xuất bản Việt Nam kiến nghị sửa đổi điều 344 như sau: “Điều 344. Tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản 1. Người nào vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Tổ chức in hoặc in, sao xuất bản phẩm mà không có quyết định xuất bản hoặc giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh; không có bản thảo đã được ký duyệt theo quy định của pháp luật;
định của pháp luật hoặc không có xác nhận đăng ký xuất bản, không có quyết định xuất bản, không có bản thảo đã được ký duyệt mà vẫn xuất bản xuất bản phẩm đó; 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 117 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh đã có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản để xuất bản, mà những thay đổi, sai lệch này có nội dung phản động, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc, làm tổn hại chủ quyền quốc gia.” 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” |
