Làm sao phân biệt hợp đồng “giả cách” trong giao dịch dân sự?

(VOH) - Hợp đồng “giả cách” là một hợp đồng dân sự về nội dung đó không phải là ý chí thật của các bên là một giao dịch chỉ mang tính hình thức để che dấu một thỏa thuận “thật”.

Luật sư Nguyễn Thế Hùng, Đoàn Luật sư TPHCM sẽ giải thích rõ hơn về hợp đồng giả cách cũng như phân biệt khác nhau giữa hai tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" và “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bộ luật Hình sự 2015.

Làm sao phân biệt hợp đồng “giả cách” trong giao dịch dân sự?
Làm sao phân biệt hợp đồng “giả cách” trong giao dịch dân sự? - Ảnh minh họa

*VOH: Xin ông cho biết tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 có mức xử phạt như thế nào?

Ls Nguyễn Thế Hùng: Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm   2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên, sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Ngoài ra hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến 100 triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

*VOH: Làm sao phân biệt tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”? Hai tội này khác nhau ở điểm nào? Mức xử phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như thế nào?

Ls Nguyễn Thế Hùng: Chúng ta có thể phân biệt tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trước hết là dựa vào căn cứ pháp lý. Tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 175 còn tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hai tội này còn khác nhau ở sự cấu thành về hành vi, hình thức, giá trị tài sản chiếm đoạt cũng như thủ đoạn thực hiện tội phạm.

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hành vi cấu thành tội phạm là giá trị tài sản chiếm đoạt từ 2 triệu đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hành vi cấu thành là tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 4 triệu đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng phạm tội trong tình huống đi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.

Về mức hình phạt thì hai tội này cũng có những điểm khác, theo quy định của luật.

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mức chế tài cao nhất là tù chung thân khi chủ thể phạm tội chiếm đoạt tài sản từ  500 triệu đồng trở lên.

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mức cao nhất là bị phạt tù từ 12 đến 20 năm khi chiếm đoạt tài sản từ  500 triệu đồng trở lên.

*VOH: Làm sao để phân biệt việc thực hiện hợp đồng dân sự “giả cách” hay là hợp đồng có “ý chí thỏa thuận thật” khi mà trên hợp đồng đều có chữ ký của các bên mà văn bản ghi rõ sự tự nguyện khi ký?

Ls Nguyễn Thế Hùng: Rất khó để có thể phân biệt được hợp đồng “giả cách” với các hợp đồng được thực hiện đúng quy định của pháp luật – tức cũng đúng với đạo đức xã hội. Lý do: Hợp đồng “giả cách” là một giao dịch chỉ mang tính hình thức để giúp che dấu một thỏa thuận "thật".

Hợp đồng giả cách, về hình thức đó là một hợp đồng dân sự nhưng về nội dung đó không phải là ý chí thật của các bên tham gia hợp đồng. Chẳng hạn khi chủ sở hữu cho thuê nhà, hợp đồng giả cách chỉ thể hiện giá cho thuê bằng một nửa giá thật để né thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp này rất khó để xác định đây là một hợp đồng giả cách do chữ ký trong hợp đồng thể hiện sự tự nguyện của cả 2 bên.

Tuy nhiên, các cơ quan có chức năng và thẩm quyền hoàn toàn có thể “điều chỉnh” hành vi gian dối trong hợp đồng giả cách. Trong tình huống ví dụ trên, nhà nước sẽ dựa vào các quy định của pháp luật, các quy định về khung giá nhà đất, hoặc tổ chức xem xét, thẩm định các yếu tố chứng minh mang tính “logic” trong một giao dịch “giả cách”, để có quyết định phù hợp.

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của luật Dân sự hay các luật khác có liên quan (Điều 124 luật Dân sư).

Hiện nay pháp luật không có bất cứ một quy định nào về hợp đồng giả cách tuy nhiên theo quy định tại Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015 về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự, theo đó không được vi phạm điều cấm của luật và không trái với đạo đức xã hội và tại Điều 124 của Bộ luật này quy định rằng giao dịch dân sự giả tạo sẽ bị vô hiệu có thể giúp chúng ta đối chiếu để nhận ra đâu là hợp đồng giả cách trong giao dịch dân sự.

*VOH: Trong vụ án Tân Hiệp Phát tháng 11/2022: Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an – C01 tạm đình chỉ vụ án "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" vì hết thời hạn điều tra. Như vậy, khi nào thì cơ quan điều tra được tạm đình chỉ vụ án. Quyết định tạm đình chỉ khi nào thì sẽ hết hiệu lực, và phục hồi điều tra lại?

Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn điều tra là thời gian để cơ quan điều tra hoàn thành việc điều tra vụ án, được tính từ khi khởi tố vụ án cho đến ngày kết thúc điều tra. Thời hạn này không được quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng và không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đối với những vụ án có tính chất phức tạp cần có thêm thời gian điều tra thì thời hạn điều tra tối đa, kể cả gia hạn, đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá 04 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là không quá 08 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng là không quá 12 tháng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là không quá 16 tháng.

Theo quy định về việc tạm đình chỉ điều tra, nếu có những căn cứ sau đây thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra:

Khi hết thời hạn điều tra nhưng chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu. Riêng trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can trước khi quyết định tạm đình chỉ điều tra.

Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo.

Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra.

Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đối với những vụ án đã có quyết định tạm đình chỉ điều tra nhưng có lý do để huỷ bỏ quyết định này thì cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thời hạn phục hồi việc điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.

Bạn đọc đặt câu hỏi này có thể dựa vào các quy định vừa dẫn để biết các căn cứ mà C01, nơi có thẩm quyền tổ chức điều tra các vụ án do Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ủy nhiệm; Thẩm quyền kiểm tra, hướng dẫn lực lượng Cảnh sát điều tra tiến hành hoạt động điều tra tội phạm, như trong vụ án Tân Hiệp Phát đã bị đình chỉ vào tháng 11/2022 và được phục hồi điều tra vào tháng 4/2023.

*VOH: Cảm ơn Ls.

Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì việc gia hạn điều tra được quy định cụ thể như sau:

Đối với tội phạm ít nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;

Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.

Bình luận