Đăng nhập

Biến khó khăn thách thức thành cơ hội

(VOH) - Vài năm trở lại đây, tình trạng kỹ sư, cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Số lượng cử nhân, thạc sĩ làm đủ việc trái ngành nghề và cả lao động phổ thông, thậm chí bán hàng đa cấp là không ít. Cay đắng hơn, cả cử nhân tốt nghiệp loại giỏi cũng xếp lại tấm bằng để đi làm công nhân, nghe có vẻ ngậm ngùi, nhưng đây lại là sự thật, là một thực tế đầy trớ trêu và càng đáng lo ngại hơn khi xu hướng này ngày một tăng cao.

Báo cáo mới nhất từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, quý I/2016, cả nước có gần 1,08 triệu lao động thất nghiệp. Trong số này, hơn 50% người thất nghiệp ở độ tuổi thanh niên từ 15 đến 24 tuổi. Gần một nửa có chuyên môn kỹ thuật cao. Và đáng chú ý, số lao động thất nghiệp có trình độ đại học trở lên chiếm số đông, tăng lên mức gần 20%, trình độ cao đẳng gần 12%. Như vậy, xét theo chiều học vấn, đã xảy ra một nghịch lý là càng học lên cao số lượng thất nghiệp càng tăng.

img thumbXem toàn màn hình

Quý I/2016, cả nước có gần 1,08 triệu lao động thất nghiệp. (Ảnh minh họa: Fica)

Bên cạnh yếu tố khách quan như kinh tế khủng hoảng, các doanh nghiệp phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh - dẫn đến dư thừa lao động, thực trạng này còn được lý giải bằng những nguyên nhân chủ quan rất cũ. Đó là sự nở nồi các trường đại học, các ngành học không theo quy hoạch, công tác hướng nghiệp hiệu quả không cao. Không chỉ là vấn đề cung - cầu lao động lệch nhau, mà quan trọng hơn là đào tạo nhân lực thiếu liên kết, chưa gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao động. Đó là chưa kể sản phẩm chất lượng thấp, khi phần lớn sinh viên đã tốt nghiệp còn yếu về chuyên môn, tự bản thân thiếu năng lực thực tiễn cũng như khả năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh. Rõ ràng là trong quá trình đào tạo, chúng ta đã thiếu hẳn chiến lược về con người.

Trong khi đó, có một thực tế hoàn toàn trái ngược, đó là nhiều trường dạy nghề lại không đáp ứng đủ nhân lực theo đơn đặt hàng từ các doanh nghiệp. Các trường cao đẳng nghề dám đảm bảo chí ít hơn 70% sinh viên có việc làm ngay khi ra trường. Có nơi tỷ lệ hơn 90%. Dù vậy, năm nào những trường nghề này cũng loay hoay, chật vật với bài toán tuyển sinh khó khăn, thậm chí có nơi đìu hiu đến mức phải giải thể. Kể cả khi không vào được Đại học, trường nghề vẫn không được số đông lựa chọn. Rõ ràng, tâm lý đề cao bằng cấp, học vì cái danh, phong trào hiếu học đến lạc hậu đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người, không dễ thay đổi một sớm một chiều. Con số hơn triệu lao động thất nghiệp, trong đó có hàng trăm ngàn cử nhân, chính là hệ quả của những điều nghịch lý nói trên. Lo ngại thay, thực trạng này, giờ đây vẫn chưa hề có dấu hiệu giảm xuống.  

Từ nhiều năm qua, có thể khái quát về thị trường lao động Việt Nam, là phổ biến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Thiếu “thợ” là chắc chắn, khi có quá nhiều người chọn vào Đại học để làm “thầy”, không cần biết điều kiện có phù hợp với bản thân hay không. Tuy nhiên, chỉ thừa nhiều những “ông thầy” còn yếu chuyên môn lẫn kỹ năng, chứ những “thầy” có khả năng đáp ứng tốt công việc mà thị trường đòi hỏi thì vẫn thiếu. Vậy nên, hàng trăm ngàn cử nhân chưa có việc nghiễm nhiên trở thành những người thất nghiệp đã qua đào tạo, chứ không phải là những người thất nghiệp không  được  đào tạo như trước đây.

Ai cũng biết, tình trạng thất nghiệp cao trong thanh niên, rồi chất lượng việc làm không cao nếu mãi kéo dài sẽ gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, làm suy yếu đáng kể tiềm lực kinh tế quốc gia. Việc làm và thu nhập không ổn định là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự bất ổn trong gia đình và những hệ lụy khác. Thất nghiệp cao trong thanh niên cũng có nguy cơ làm gia tăng tệ nạn xã hội, bởi trước sức ép của cuộc sống và sự bế tắc trong tìm kiếm việc làm, không ít người đã dấn thân vào con đường phạm tội.

Để giải quyết hiệu quả bài toán lãng phí nguồn nhân lực, nhiều giải  pháp căn cơ được chỉ ra từ lâu. Đó là dự báo đúng về thị trường lao động, việc làm, rồi hướng nghiệp, phân luồng nhân lực, tuyên truyền thay đổi tâm lý sính bằng cấp… Gắn kết thị trường lao động với doanh nghiệp, đào tạo theo nhu cầu, đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng ngành. Và quan trọng nhất vẫn là phải đổi mới chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng trang bị các kỹ năng thực hành, kỹ năng mềm. Làm sao để lực lượng lao động trình độ cao có thể đáp ứng ngay với công việc khi ra trường.

Trong xu thế mở và cạnh tranh, khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, rồi thị trường lao động ASEAN được tự do dịch chuyển, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội, nhưng đồng thời cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Nguồn lao động từ  Thái lan, Singapore, Philippines, Indonesia, Malaysia… sẽ tràn vào thị trường lao động Việt Nam trong nay mai. Những kỹ sư, cử nhân tại chỗ, nếu không tự nỗ lực, để khi ra trường mà tiếng Anh không tốt, kiến thức căn bản, kỹ năng mềm không tốt - hoàn toàn có thể bị đánh bật ngay tại sân nhà bởi các lao động nước ngoài.

Vậy nên - điều cần làm nhất vẫn là thực hiện hiệu quả những giải pháp căn cơ đã kể. Có vậy, mới mong có thể kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp - và lao động Việt Nam mới đủ năng lực để biến khó khăn, thách thức thành cơ hội cho mình.

Bình luận