Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 31.800 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 30.900 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng ổn định, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 31.000 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 30.900 đồng/kg.
Song song đó, giá cà phê tại Đắk Lắk cũng đi ngang, khu vực Cư M'gar ở mức 31.800 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 31.600 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai không đổi, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch ở mức 31.400 đồng/kg
Giá cà phê tại Đắk Nông cũng đi ngang , dao động ở ngưỡng 31.400 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum ổn định ở mức 31.400 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM đi ngang ở ngưỡng 33.200đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.315 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 80 – 100 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 11 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
31,000 |
0 |
— Lâm Hà (Robusta) |
31,000 |
0 |
— Di Linh (Robusta) |
30,900 |
0 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
31.800 |
0 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
31,600 |
0 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
31,400 |
0 |
_ Ia Grai (Robusta) |
31,400 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
31,400 |
0 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
31.400 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
33,200 |
0 |
Ảnh minh họa: internet
Nguồn cung cà phê trong nước hạn chế là nguyên nhân khiến giá cà phê tại thị trường nội địa tăng kể từ đầu tháng 5/2020.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, nguồn cung cà phê trong nước hạn chế là nguyên nhân khiến giá cà phê tại thị trường nội địa tăng kể từ đầu tháng 5/2020. Tình trạng thiếu nước nghiêm trọng đã ảnh hưởng đến sản lượng cà phê tại khu vực Tây Nguyên.
Theo Tổng cục Hải quan, ước tính xuất khẩu cà phê 15 ngày đầu tháng 6/2020 đạt 63.800 tấn, với 108,08 triệu USD. Ước xuất khẩu tháng 6/2020 đạt 127,600 nghìn tấn với 216,16 triệu USD, so với tháng 6/2019 giảm 10,42% về lượng và giảm 9,23% về trị giá.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2020, đạt 942.616 tấn với 1,482 tỷ USD, so với cùng kỳ 2019 tăng 2,56% về lượng nhưng giảm gần 0,6% về trị giá.
Đức, Ý và Mỹ tiếp tục là ba thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2020 với thị phần lần lượt là 16% (133,7 triệu USD), 8,6% (72,2 triệu USD ) và 8,5% (70,7 triệu USD).
Giá cà phê thế giới suy yếu
Giá cà phê suy yếu trên cả hai sàn kỳ hạn là điều dễ dàng nhận thấy do áp lực bán hàng từ Brasil cũng tăng theo tiến độ thu hoạch vụ mùa mới, trong khi nhà đầu tư có thêm mối lo dịch bệnh Covid-19 bùng phát trở lại.
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
09/20 |
1197 |
0 |
0 |
8516 |
1205 |
1187 |
1197 |
1197 |
66403 |
11/20 |
1215 |
0 |
0 |
2970 |
1222 |
1205 |
1213 |
1215 |
35878 |
01/21 |
1228 |
-2 |
-0.16 |
1500 |
1236 |
1220 |
1227 |
1230 |
13223 |
03/21 |
1242 |
-4 |
-0.32 |
723 |
1249 |
1234 |
1241 |
1246 |
11500 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
09/20 |
97.40 |
-1.35 |
-1.87 |
14278 |
99.4 |
96.65 |
98.7 |
98.75 |
103881 |
12/20 |
100.05 |
-1.30 |
-1.78 |
6081 |
101.95 |
99.4 |
101.45 |
101.35 |
65480 |
03/21 |
102.20 |
-1.35 |
-1.79 |
3319 |
104 |
101.55 |
103.55 |
103.55 |
40827 |
05/21 |
103.55 |
-1.35 |
-1.62 |
2016 |
105.15 |
102.85 |
104.75 |
104.9 |
22047 |
Mở cửa phiên giao dịch ngày 10/7/2020, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London không có sự biến động nào đáng kể. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 vẫn đứng ở 1.197 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 11 vẫn đứng ở 1.215 USD/tấn, các mức không đổi. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Trái lại, sàn cà phê Arabica ICE US – New York sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm thêm 1,35 cent, xuống 97,4 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 giảm thêm 1,3 cent, còn 100,05 cent/lb, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch duy trì ở mức trung bình.
Đồng Reais tăng nhẹ thêm 0,26 %, lên ở mức 1 USD = 5,3230 Reais do tiếp tục lạc quan về khả năng điều trị dịch bệnh, cho dù báo cáo diễn biến đại dịch Covid-19 vẫn gia tăng ở khu vực Bắc Mỹ và Đông Á khiến nhiều thành phố phải áp dụng các biện pháp cách ly trở lại, điều này cho thấy sự hồi phục kinh tế toàn cầu chưa thể chắc chắn và tỷ giá hối đoái vẫn chưa thể ổn định.
Các thị trường cà phê tiếp tục biến động theo xu hướng tiêu cực khi Brasil bước vào giai đoạn cuối của vụ thu hoạch mới. Theo Safras & Mercado, thu hoạch cà phê Conilon Robusta cơ bản đã hoàn tất, trong khi thu hoạch Arabica muộn hơn, sẽ hoàn tất khoảng đầu tháng Tám. Do đó, áp lực bán hàng vụ mới từ Brasil ngày càng tăng.
Viện Địa lý và Thống kê Brasil (IBGE) vừa cập nhật dự báo vụ mùa mới với tổng sản lượng cà phê năm 2020 khoảng 59 triệu bao, tăng 18,2% so với vụ mùa năm 2019. Do con số của IBGE đưa ra thường chênh lệch với thực tế từ 5 – 10% và do đó, có thể khẳng định dự báo này sẽ không mấy tác động tâm lý thị trường vào lúc này.
Trong khi đó, cà phê Robusta vụ mới của Indonesia cũng bắt đầu được bán ra thị trường địa phương những đã có sự cạnh tranh mua giữa nhà rang xay và thương nhân nội địa, trong khi nhà xuất khẩu cũng cạnh tranh mua ở mức cao, góp phần đẩy giá chênh lệch lên cao hơn nữa. Ghi nhận cà phê Lampung loại 4, có 80 hạt lỗi, hiện có mức cộng hơn 200 USD/tấn so với giá kỳ hạn London.
Thị trường cũng đã lên tiếng về sự chênh lệch giữa giá cà phê thực tế và giá cà phê kỳ hạn. Điều này cho thấy các sàn cà phê phái sinh thế giới đã không góp phần tạo ra thuận lợi mà còn gây thêm khó khăn cho việc kinh doanh cà phê hiện nay.
Theo Cơ quan Phát triển Cà phê Uganda (UCDA), xuất khẩu cà phê của nước này trong tháng 5/2020 đạt 437.597 bao, tăng 26,6% so với tháng 5/2019. Trong đó, xuất khẩu cà phê robusta tăng 35,8%, đạt 340.830 bao; cà phê arabica tăng 2%, đạt 96.767 bao.
Mối lo làn sóng dịch covid-19 lần 2 ngày càng gia tăng đã tác động tiêu cực lên thị trường cà phê.
Đồng Real Brazil giảm mạnh có lợi cho người trồng cà phê Brazil. Trong khi đó, Brazil đang trong vụ thu hoạch cà phê Robusta với dự báo được mùa và Indonesia bắt đầu tham gia thị trường.