Giá cà phê trong nước
Giá cà phê trong nước hôm nay, giá cao nhất là 63.900 đồng/kg tại Đắk Lắk, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 63.000 đồng/kg.
Phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Bảo Lộc tăng 1.400 đồng, Lâm Hà (Lâm Đồng), ở mức 63.000 đồng/, tại Di Linh ở ngưỡng 63.000 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk tăng 1.400 đồng, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 63.900 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 63.900 đồng/kg.
Giá cà phê ở Pleiku (Gia Lai) tăng 1.400 đồng với mức giá 63.800 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 63.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông tăng 1.400 đồng, dao động ở ngưỡng 63.900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum tăng 1.400 đồng, dao động ở mức 63.800 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
Bảo Lộc (Robusta) |
63.000 |
+1.400 |
Lâm Hà (Robusta) |
63.000 |
+1.400 |
Di Linh (Robusta) |
63.000 |
+1.400 |
ĐẮK LẮK |
||
Cư M'gar (Robusta) |
63.900 |
+1.400 |
Buôn Hồ (Robusta) |
63.900 |
+1.400 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
63.800 |
+1.400 |
Ia Grai (Robusta) |
63.800 |
+1.400 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
63.900 |
+1.400 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
63.800 |
+1.400 |
Giá cà phê trong nước tiếp tục tăng so với hôm qua.
Tại nguồn cung Việt Nam đang gây bất ngờ, khi Tổng cục Hải quan Việt Nam báo cáo dữ liệu sơ bộ cho thấy xuất khẩu cà phê trong tháng 11 đã đạt 119.297 tấn (khoảng 1,988 triệu bao) giảm 7,44% so với cùng kỳ năm trước.
Do đó, lũy kế xuất khẩu cà phê 11 tháng đầu năm đã đạt tổng cộng 1.415.983 tấn (tương đương 23,4 triệu bao) giảm 10,41 % so với cùng kỳ, đã hỗ trợ xu hướng giá tăng.
Giá cà phê trong nước không chỉ tăng đều mà còn tăng rất mạnh giữa vụ thu hoạch là điều rất ít khi xảy ra. Giới chuyên nhận định, tình hình cho thấy nguồn cung vụ mới gây lo lắng, sản lượng kém khả quan.
Tồn kho cà phê vụ mới gối sang ở mức thấp do xuất khẩu mạnh từ đầu năm. Nguồn cung hàng thiếu, giá tăng mạnh, khiến nông dân không được lưởng lợi mà doanh nghiệp phải tăng nhập khẩu để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu.
Tồn kho cà phê cuối niên vụ 2022/23 của Việt Nam chỉ ở mức 339.000 bao loại 60kg, mức thấp thứ hai trong 15 năm trở lại đây. Nguyên nhân do xuất khẩu cà phê đạt mức cao kỷ lục 1,78 triệu tấn trong niên vụ 2021/22, cùng sản lượng niên vụ 2022/23 sụt giảm 10-15% do ảnh hưởng xấu từ thời tiết, khiến lượng cà phê trong niên vụ 2022/23 không đủ đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu.
Giá cà phê thế giới
Theo khảo sát giá cà phê sáng ngày 13/12, giá cà phê robusta tại London giao tháng 1/2024 được ghi nhận tại mức 2.759 USD/tấn sau khi tăng 4% (tương đương 106 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 3/2024 tại New York ở mức 185,25 US cent/pound sau khi tăng 0,62% (tương đương 1,15 US cent).
Kinh tế của Bắc Mỹ vẫn mạnh với mức tăng trưởng GDP thực tế là 2,1% từ năm 2022 đến năm nay do nền kinh tế chỉ chứng kiến tỷ lệ lạm phát 4,1%. Mặt khác, Canada, nước tiêu thụ cà phê bình quân đầu người quan trọng, có GDP tăng 3,4%, cao hơn đáng kể so với Mỹ, trong khi vẫn duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp 3,6%.
Trong bối cảnh kinh tế rộng hơn cho năm nay, Mỹ và Canada đã đạt được kết quả tăng trưởng mạnh mẽ, qua đó duy trì triển vọng tăng trưởng tích cực về tiêu thụ cà phê. Với 72% người trưởng thành cho biết họ uống cà phê (Hiệp hội Cà phê Quốc gia (NCA), 2023), triển vọng của quốc gia tiêu thụ cà phê lớn nhất tính theo số lượng vẫn tích cực.
Là một trong những tổ chức tiền tệ hàng đầu thế giới, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã tăng lãi suất cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tín dụng giá rẻ và dễ tiếp cận, theo ICO Coffee.
Một trong những tác động trực tiếp của chương trình chính sách này là khi nền kinh tế chậm lại, lạm phát và chi tiêu tiêu dùng có thể giảm bớt. Tuy nhiên, cà phê vẫn là một sản phẩm không co giãn nên ảnh hưởng đến tiêu dùng có thể bị hạn chế.
Nam Mỹ đã điều hành thành công chính sách tiền tệ nhằm giảm lạm phát từ 7,8% xuống 5% vào năm nay (không bao gồm Argentina và Venezuela). Tuy nhiên, lạm phát giảm đã cản trở tăng trưởng kinh tế.
Điều này xảy ra cùng với môi trường quốc tế đang suy yếu, nơi nhu cầu về xuất khẩu và dịch vụ quan trọng giảm và tăng trưởng chậm lại từ các đối tác thương mại chính.
Những hạn chế đối với các chính sách kinh tế quốc gia vì các yếu tố bên ngoài như biến động giá hàng hóa, căng thẳng địa chính trị gia tăng và bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu có thể cản trở việc hoạch định kinh tế vĩ mô chiến lược của một quốc gia.
Khu vực Châu Á và Châu Đại Dương dự kiến sẽ tăng trưởng 4,6% vào năm nay, cho thấy khả năng tách mình khỏi các tình hình kinh tế phương Tây ở một mức độ nào đó. Do mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người vẫn còn ở giai đoạn sơ khai trên khắp lục địa nên vẫn còn tiềm năng lớn để đạt được mức tiêu thụ ở các nền kinh tế nhập khẩu phát triển truyền thống.
Lạm phát chung đã giảm so với mức cao nhất sau đại dịch và giá hàng hóa toàn cầu đã giảm, giảm bớt áp lực tài chính lên người tiêu dùng cuối cùng. Tuy nhiên, mặc dù châu Á vẫn dẫn đầu các châu lục khác về mặt giảm lạm phát, vẫn tồn tại rủi ro từ những biến động tỷ giá hối đoái bất lợi.
Mặc dù giai đoạn sụt giá trong rổ tiền tệ châu Á diễn ra vào năm nay, nhưng nó vẫn còn hạn chế so với thời kỳ đồng đô la Mỹ mạnh lên. Các mối đe dọa đối với lạm phát cũng bao gồm giá dầu cao hơn do chi phí đầu vào của ngành có thể tăng lên, từ đó ảnh hưởng đến người tiêu dùng cuối cùng. Tác động trung hạn của chính sách tiền tệ hạn chế sẽ giúp kiềm chế lạm phát trở lại mục tiêu.