Tuần qua, giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây nguyên tăng 400 – 500 đồng.
Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 32.200 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 31.400 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng đi ngang, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 31.500 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 31.400 đồng/kg. ở lên mức 32.200 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 32.000 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai cũng không đổi, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch ở mức 31.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông ổn định, dao động ở ngưỡng 31.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum đi ngang, dao động ở mức 31.600 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM cũng ổn định, dao động trong ngưỡng 33.400đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.415 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 100 – 120 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 3 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
31,500 |
0 |
— Lâm Hà (Robusta) |
31,500 |
0 |
— Di Linh (Robusta) |
31,400 |
0 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
32.200 |
0 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
32,000 |
0 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
31,800 |
0 |
_ Ia Grai (Robusta) |
31,800 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
31,800 |
0 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
31.600 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
33,400 |
0 |
Trong 9 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu cà phê ước đạt 1,25 triệu tấn, trị giá 2,16 tỉ USD, giảm 1,4% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu, xuất khẩu cà phê tháng 9 giảm 0,2% về lượng, nhưng tăng 2% về trị giá so với tháng 8/2020; tăng 8,3% về lượng và tăng 11,6% về trị giá so với tháng 9/2019.
Trong 9 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu cà phê ước đạt 1,25 triệu tấn, trị giá 2,16 tỉ USD, giảm 1,4% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Tháng 9, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt mức 1.880 USD/tấn, tăng 2,2% so với tháng 8/2020 và tăng 3% so với tháng 9/2019. Trong 9 tháng đầu năm 2020, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt mức 1.725 USD/tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Simexco, thương nhân xuất khẩu cà phê lớn nhất Tây Nguyên, cũng dự báo sản lượng vụ thu hoạch sắp tới của Việt Nam sẽ giảm khoảng 4,8% so với vụ trước, do nhiều diện tích cà phê già cỗi phải thực hiện tái canh và nông dân đưa thêm nhiều cây trồng có giá trị vào xen canh.
Ông Phan Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam nhận định hiện vẫn chưa thấy yếu tố hỗ trợ giá cà phê trong thời gian tới trong bối cảnh thị trường thế giới vẫn đang ảm đạm.
Trong báo cáo mới nhất cập nhật hôm 2/9, Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) mới đây đưa ra dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2019 - 2020 ước tính đạt 31,5 triệu bao trong niên vụ 2019 - 2020, cao hơn 0,7% so với niên vụ trước.
Tuy nhiên, trao đổi với người viết, ông Phan Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam, đồng thời là Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam - Công ty TNHH MTV (VINACAFE) nhận định con số ICO đưa ra chưa thực sự chính xác bởi đợt hạn hán vừa qua ở khu vực Tây Nguyên gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng.
Giá cà phê thế giới đi ngang
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
11/20 |
1273 |
0 |
0 |
4905 |
1286 |
1264 |
1269 |
1264 |
27396 |
01/21 |
1297 |
0 |
0 |
11415 |
1312 |
1284 |
1290 |
1286 |
38229 |
03/21 |
1306 |
0 |
0 |
5304 |
1319 |
1294 |
1313 |
1295 |
25638 |
05/21 |
1320 |
0 |
0 |
333 |
1332 |
1311 |
1314 |
1310 |
12300 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
12/20 |
107.25 |
0 |
0 |
14716 |
111.1 |
106.85 |
109.65 |
109.5 |
90101 |
03/20 |
110 |
0 |
0 |
7021 |
113.6 |
109.55 |
112.15 |
112.1 |
71976 |
05/21 |
111.4 |
0 |
0 |
2874 |
115 |
111.1 |
113.8 |
113.6 |
33567 |
07/21 |
112.7 |
0 |
0 |
1832 |
116.25 |
112.4 |
115.05 |
114.9 |
30385 |
Tính chung cả tuần qua, thị trường London có 3 phiên tăng và 2 phiên giảm. Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao ngay tháng 11 tăng tất cả 13 USD, tức tăng 1,03%, lên 1.273 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 1 tăng tất cả 17 USD, tức tăng 1,33 %, lên 1.297 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3 tăng tất cả 11 USD, tức tăng 0,85 %, lên 1.306 USD/tấn, các mức tăng đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Trái lại, thị trường New York có 1 phiên tăng và 4 phiên giảm. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 12 giảm tất cả 4,3 cent, tức giảm 3,85 %, xuống 107,25 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3 giảm tất cả 3,8 cent, tức giảm 3,34 %, còn 110 cent/lb, các mức giảm mạnh. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.
Trong tuần này, giá cà phê hai sàn kỳ hạn tiếp tục diễn biến trái chiều nhưng ngược lại, giảm ở New York và tăng tại London. Nguyên nhân chủ yếu do dồng Reais Brasil giảm sâu trở lại, trong khi USDX mạnh lên do gói tài trợ mới dường như đã thực sự bế tắc trước ngày bầu cử tổng thống Mỹ vào đầu tháng 11 sắp tới.
Giá cà phê Robusta London còn có thêm thông tin mưa bão, lũ lụt kéo dài tại Việt Nam hỗ trợ, cho dù đầu cơ trên các thị trường hàng hóa phái sinh vẫn còn lo ngại, tiếp tục đứng bên ngoài do có thông tin một số thực nghiệm vắc-xin phòng ngừa covid-19 bị đình chỉ khiến thị trường càng thêm hoang mang.
Báo cáo Cam kết Thương nhân (CFTC) mới nhất từ thị trường cà phê Arabica ở New York cho thấy bộ phận đầu cơ phi thương mại đã giảm vị thế mua ròng bớt 20,86%, trong tuần thương mại tính đến thứ Ba ngày 06/10, xuống đăng ký mua ròng ở 20.298 lô, tương đương với 5.754.393 bao. Vị thế mua ròng này rất có thể đã được giảm hơn nữa, sau giai đoạn thương mại chủ yếu là tiêu cực kể từ sau đó.
Báo cáo CFTC mới nhất từ thị trường cà phê Robusta tại London cho thấy trong cùng tuần thương mại này, đầu cơ ngắn hạn của các Quỹ quản lý tiền đã giảm vị thế mua ròng bớt 77,47%, xuống đăng ký mua ròng ở 3.053 lô, tương đương 508.833 bao. Vị thế mua ròng này rất có thể đã được tăng nhẹ trở lại sau giai đoạn thương mại hỗn hợp nhưng có phần tích cực kể từ sau đó.
Tính đến thứ Hai ngày 12/10, tồn kho cà phê Robusta được sàn London chứng nhận và theo dõi cấp phát đã giảm thêm 240 tấn, tức giảm 0,22 % so với tuần thương mại trước đó, xuống đăng ký ở 108.240 tấn (tương đương 1.804.000 bao, bao 60 kg).