Giá cà phê trong nước hôm nay tăng 100 đồng/kg, giá cao nhất là 51.100 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 50.500 đồng/kg.
Phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tăng 100 đồng/kg ở Bảo Lộc, Lâm Hà (Lâm Đồng) ở mức 50.600 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 50.500 đồng/kg.
Giá cà phê tăng 100 đồng/kg tại Đắk Lắk, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 51.100 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 51.000 đồng/kg.
Giá cà phê tăng 100 đồng/kg ở Pleiku (Gia Lai) với mức giá 51.000 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 51.000 đồng/kg.
Giá cà phê tăng 100 đồng/kg tại Đắk Nông, dao động ở ngưỡng 51.000 đồng/kg.
Giá cà phê tăng 100 đồng/kg tại Kon Tum, dao động ở mức 51.000 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
Bảo Lộc (Robusta) |
50.600 |
+100 |
Lâm Hà (Robusta) |
50.600 |
+100 |
Di Linh (Robusta) |
50.500 |
+100 |
ĐẮK LẮK |
||
Cư M'gar (Robusta) |
51.000 |
+100 |
Buôn Hồ (Robusta) |
51.100 |
+100 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
51.000 |
+100 |
Ia Grai (Robusta) |
51.000 |
+100 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
51.000 |
+100 |
KON TUM |
||
Đắk Hà (Robusta) |
51.000 |
+100 |
Xét về thị phần xuất khẩu cà phê, Việt Nam xếp thứ 2 thế giới. Giá cà phê Việt lại luôn xếp chót bảng trong các nước xuất khẩu.
Ước tính tháng 3/2023, Việt Nam xuất khẩu 230 nghìn tấn cà phê, trị giá 522 triệu USD, tăng 9,2% về lượng và tăng 10,2% về trị giá so với tháng 3/2022. Tính đến hết quý I/2023, xuất khẩu cà phê của nước ta ước đạt 572 nghìn tấn, thu về gần 1,27 tỷ USD, giảm 1,6% về lượng và giảm 2,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Quý 1/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.214 USD/tấn, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Việt Nam là nước đứng thứ 2 thế giới về thị phần xuất khẩu cà phê (giai đoạn tháng 2/2021-1/2022), chỉ xếp sau Brazil. Xét về năng suất trồng, cà phê Việt Nam đứng đầu thế giới khi đạt 2,4 tấn/ha. Giá cà phê xuất khẩu của nước ta lại rất rẻ, luôn xếp chót bảng trong các nước xuất khẩu.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu cho hay, trong năm 2022, EU nhập khẩu 3,05 triệu tấn cà phê, trị giá 12,81 tỷ EUR (tương đương 13,85 tỷ USD) từ các thị trường ngoại khối (các nước không thuộc EU). Với khối lượng xuất khẩu đạt 662 nghìn tấn, trị giá gần 1,54 tỷ EUR (tương đương 1,66 tỷ USD.
Giá cà phê thế giới
Theo khảo sát giá cà phê sáng ngày 20/4, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London tăng liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng thêm 26 USD, lên 2.468 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 tăng thêm 7 USD, lên 2.386 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 2,90 cent, xuống 200,15 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 2,75 cent, còn 197,20 cent/lb.
Tồn kho 2 sàn giảm tiếp cũng là một yếu tố tích cực, trong khi hiện tượng vắt giá vẫn diễn ra thể hiện sự thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn trên cả 2 sàn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn đã sụt giảm trở lại ngay khi sàn New York bước vào ngày thông báo đầu tiên kể từ hôm nay 20/4. Giá cà phê Robusta vẫn duy trì đà tăng, chi ít là đến ngày 25/4, sàn London mới bước vào ngày thông báo đầu tiên của hợp đồng tháng 5.
Lượng hàng mới giao về sàn gia tăng đáng kể, tăng tới 4,66% so với một tuần trước đó lên ở mức 77.590 tấn (tương đương 1.293.167 bao, bao 60 kg) theo dữ liệu báo cáo ngày hôm qua 19/04 của ICE – London.
Thị trường hiện vẫn được hỗ trợ bởi các báo cáo nguồn cung toàn cầu thiếu hụt, thúc đẩy quỹ hàng hóa tăng mua cà phê kỳ hạn để thu lợi trong ngắn hạn.
Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) dự báo sản lượng cà phê toàn cầu sẽ phục hồi và tăng 1,7% lên mức 171,3 triệu bao trong niên vụ 2022 - 2023. Chủ yếu do sản lượng của Brazil, nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới tăng theo chu kỳ hai năm một, mặc dù giá phân bón tăng cao và điều kiện thời tiết bất lợi tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất cà phê toàn cầu.
Sau khi giảm 7,2% trong niên vụ trước, sản lượng cà phê arabica toàn cầu dự kiến tăng 4,6% lên 98,6 triệu bao trong niên vụ 2022 - 2023. Tỷ trọng cà phê arabica trong tổng sản lượng cà phê toàn cầu dự kiến tăng lên mức 57,5% từ mức 55,9% của niên vụ 2021 - 2022.
Sản lượng robusta dự kiến giảm 2,1% xuống còn 72,7 triệu bao. Điều này kéo theo sản lượng của khu vực châu Á và châu Đại Dương giảm 4,6% so với vụ trước, ở mức 49,7 triệu bao.
Nam Mỹ vẫn là khu vực sản xuất cà phê lớn nhất thế giới với sản lượng dự báo vào khoảng 82,4 triệu bao, tăng 6,2% so với niên vụ 2021-2022. Sản lượng của khu vực đã giảm 7,6% trong niên vụ 2021 - 2022, mức sụt giảm lớn nhất trong gần 20 năm.
Trong ngắn hạn, thị trường đang lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung. Tính đến cuối quý I, tồn kho đạt chuẩn của sàn ICE London giảm thêm 800 tấn xuống mức 75.500 tấn. tồn kho arabica được chứng nhận trên sàn New York giảm 6,7% so với tháng trước xuống 800.000 bao.
Lượng cà phê Robusta của Việt Nam thu hoạch trong niên vụ 2022/2023 trong nhà nông đã cạn kiệt, hầu hết lượng hàng dành cho xuất khẩu đã nằm trong tay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và họ đang chờ giá cao mới tung ra.