Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 30.800 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 30.700 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng tăng 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà lên mức 30.800 đồng/kg, tại Di Linh lên ngưỡng 30.700 đồng/kg.
Tromng khi đó, giá cà phê tại Đắk Lắk đi ngang, khu vực Cư M'gar ở mức 31.400 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 31.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai cũng tăng 100 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai lên mức 31.100 đồng/kg
Giá cà phê tại Đắk Nông tăng 100 đồng/kg lên ngưỡng 31.100 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum đi ngang ở mức 31.000 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM ổn định ở ngưỡng 32.600đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.326 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 100 – 120 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 9 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
30,800 |
+100 |
— Lâm Hà (Robusta) |
30,800 |
+100 |
— Di Linh (Robusta) |
30,700 |
+100 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
31.400 |
0 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
31,200 |
0 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
31,100 |
+100 |
_ Ia Grai (Robusta) |
31,100 |
+100 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
31,100 |
+100 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
31.000 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
32,600 |
0 |
Ảnh minh họa: internet
Người dân trồng cà phê trong nước đang phải đối mặt với rủi ro kép: Cùng với việc giá bán đi xuống, giá nhân công, phân bón tăng, nông dân còn khó khăn hơn với tình trạng hạn hán ở khu vực Tây Nguyên.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên, mùa khô năm 2020 tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng có chiều hướng gia tăng. Do đó, nhiều diện tích hoa màu, cây công nghiệp, nhất là cây cà phê không có nước tưới, nhiều hộ dân đang lâm vào tình cảnh thiếu nước sinh hoạt. Ngành cà phê cùng lúc chịu tác động kép do hạn hán và dịch Covid-19 lan rộng khiến giá cà phê chạm đáy 10 năm.
Theo Cục Xuất nhập khẩu dự báo giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới vẫn biến động theo xu hướng giảm. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê thế giới tăng cao trong những năm gần đây, trong khi nhu cầu chỉ tăng từ 2 – 2,5%/năm khiến cung vượt cầu.
Xuất khẩu cà phê tháng 4 năm 2020 ước đạt 165 nghìn tấn với giá trị đạt 272 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2020 đạt 654 nghìn tấn và 1,1 tỉ USD, tăng 3,7% về khối lượng và tăng 1,5% về giá trị so với cùng kì năm 2019.
Giá cà phê xuất khẩu bình quân 4 tháng đầu năm 2020 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 2,1% so với cùng kì năm 2019.
Trong tháng 4, giá cà phê thế giới biến động giảm. Cụ thể, giá xuất khẩu bình quân tháng 4 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 5% so với tháng 3, và giảm 2,9% so với cùng kì năm 2019.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), khô hạn tại khu vực Tây Nguyên ảnh hưởng đến nguồn cung cà phê trong nước, cùng với đó người trồng cà phê có xu hướng hạn chế bán ra, chờ giá tăng là những yếu tố hỗ trợ giá cà phê trong nước.
Ngày 8/5, giá cà phê robusta tại thị trường nội địa tăng từ 0,7 – 1,3% so với ngày 30/4. Tại cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, cà phê robusta loại R1 tăng 1,3% so với ngày 30/4, lên mức 32.100 đồng/kg.
Tính chung quí I/2020, xuất khẩu cà phê arabica đạt 26,6 nghìn tấn, trị giá 62,17 triệu USD, tăng 26,4% về lượng và tăng 39% về trị giá so với quí I/2019.
Mỹ là thị trường xuất khẩu cà phê arabica lớn nhất trong quí I/2020, lượng đạt 10,1 nghìn tấn, trị giá gần 24,60 triệu USD, tăng 36,3% về lượng và tăng 44,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Giá xuất khẩu bình quân cà phê arabica sang thị trường Mỹ trong quí I/2020 đạt mức 2.433 USD, tăng 5,8% so với quí I/2019.
Bỉ là thị trường xuất khẩu cà phê arabica lớn thứ 2, lượng đạt 5,5 nghìn tấn, trị giá 12,13 triệu USD trong quí I/2020, tăng 39,9% về lượng và tăng 55,9% về trị so với cùng kỳ năm 2019.
Giá xuất khẩu cà phê arabica sang thị trường Bỉ trong quí I/2020 đạt mức 2.186 USD/tấn, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Bên cạnh đó, xuất khẩu cà phê arabica sang nhiều thị trường tăng, gồm: Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Ý, Canada, Venezuela, Mexico, Malaysia.
Ngược lại, xuất khẩu cà phê arabica sang một số thị trường giảm, như: Đức, Indonesia, Nga, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Pháp, Hàn Quốc.
Giá cà phê thế giới trái chiều
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
07/20 |
1184 |
+2 |
+0.17 |
11177 |
1196 |
1178 |
1181 |
1182 |
62459 |
09/20 |
1206 |
+5 |
+0.42 |
4897 |
1216 |
1197 |
1201 |
1201 |
37202 |
11/20 |
1226 |
+7 |
+0.57 |
2900 |
1233 |
1215 |
1221 |
1219 |
18489 |
01/21 |
1246 |
+8 |
+0.65 |
1332 |
1253 |
1233 |
1235 |
1238 |
11082 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
07/20 |
107.05 |
-0.70 |
-0.65 |
11518 |
108.70 |
106.30 |
107.50 |
107.75 |
80456 |
09/20 |
108.40 |
-0.60 |
-0.55 |
6054 |
109.90 |
107.60 |
108.65 |
109 |
49973 |
12/20 |
110.20 |
-0.65 |
-0.59 |
2472 |
111.70 |
109.45 |
110.55 |
110.85 |
51134 |
03/21 |
112.05 |
-0.60 |
-0.53 |
1676 |
113.50 |
111.30 |
112.35 |
112.65 |
24161 |
Mở cửa phiên giao dịch ngày 20/5, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London hồi phục liên tiếp phiên thứ tư. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng thêm 2 USD, lên 1.184 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 tăng thêm 5 USD, lên 1.206 USD/tấn, các mức tăng nhẹ. Khối lượng giao dịch tăng lên trên mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 0,7 cent/lb, xuống 107,05 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 0,6 cent/lb, còn 108,4 cent/lb, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Đồng Reais giảm 0,62 %, xuống ở mức 1 USD = 5,7610 Reais sau khi có ý kiến chưa thể lạc quan do lo ngại vắc-xin phòng ngừa covid-19 có thể có sai sót khiến các sàn chứng khoán Mỹ xấu đi.
Tuy các thị trường cà phê kỳ hạn đã có chút lạc quan trở lại nhưng bất ổn trên chính trường Brasil vẫn còn nguyên, trong khi đã bước vào thu hoạch vụ mùa cà phê mới năm nay và đồng Reais đang ở mức quá thấp, nên khối lượng thương mại trên cả hai sàn cà phê kỳ hạn vẫn còn thấp do nhà đầu tư vẫn còn thận trọng đứng bên ngoài chờ đợi nghe ngóng thêm.
Hiệp hội Cà phê Hạt (GCA) của Mỹ báo cáo cà phê dự trữ tại các kho cảng quốc gia đã tăng 494.299 bao, tức tăng 8,21% trong tháng Tư, lên đăng ký tồn kho ở mức 6.517.867 bao, trong khi khối lượng cà phê đang vận chuyển quá cảnh khắp Bắc Mỹ và tại kho hàng của nhà rang xay khoảng 1,2 triệu bao nữa. Với mức tiêu thụ khoảng 595.000 bao/tuần, tổng số tồn kho này sẽ đáp ứng đủ cho nhu cầu rang xay trong khoảng hơn 12 tuần, được cho là một con số dự trữ khá ổn định.