Giá cà phê rong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 31.500 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 30.800 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng giảm 200 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà về mức 30.900 đồng/kg, tại Di Linh về ngưỡng 30.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk cũng giảm 200- 300 đồng/kg, tại Cư M'gar dao động về mức 31.500 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê về ngưỡng 31.300 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 200 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch quanh mức 31.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông cũng giảm 200 đồng/kg, dao động về ngưỡng 31.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum cũng giảm 200 đồng/kg, dao động về mức 31.100 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 200 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 32.700 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.402 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 70 – 80 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 5 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
— Bảo Lộc (Robusta) |
30,900 |
-200 |
— Lâm Hà (Robusta) |
30,1900 |
-200 |
— Di Linh (Robusta) |
30,800 |
-200 |
ĐẮK LẮK |
|
|
— Cư M'gar (Robusta) |
31.500 |
-300 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
31.300 |
-200 |
GIA LAI |
|
|
— Pleiku (Robusta) |
31,200 |
-200 |
_ Ia Grai (Robusta) |
31,200 |
-200 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
— Gia Nghĩa (Robusta) |
31,200 |
-200 |
KON TUM |
|
|
— Đắk Hà (Robusta) |
31.100 |
-200 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
32,700 |
-200 |
Sản lượng xuất khẩu cà phê bình quân đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn năm, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng trong những năm qua đạt trên 3 tỷ USD.
Ngành cà phê Việt Nam cần phát triển sản xuất, chế biến theo chuỗi giá trị, tăng cường kết nối sản xuất với thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu, phát triển sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu...để đạt mục tiêu xuất khẩu 6 tỷ USD vào năm 2030.
Với sản lượng xuất khẩu bình quân đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn năm, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng trong những năm qua đạt trên 3 tỷ USD, cùng với gạo, hạt điều, rau quả, cà phê là mặt hàng có vai trò quan trọng trong rổ các loại nông sản xuất khẩu chủ lực.
Năm kỷ lục của xuất khẩu cà phê là 2018, khi nước ta xuất bán 1,88 triệu tấn, trị giá đạt 3,54 tỷ USD, tăng 19,9% về lượng và 1,1% về trị giá so với 2017. Tuy nhiên, từ 2019, xuất khẩu mặt hàng này đã giảm khá mạnh khi sản lượng 1,65 triệu tấn, kim ngạch đạt
khoảng 2,86 tỷ USD. So với năm 2018 khối lượng xuất khẩu giảm 11,9% và trị giá xuất khẩu giảm 19,3%.
"Năm 2019 là một năm biến động với thị trường cà phê khi chứng kiến giá cà phê giảm mạnh. Giá xuất khẩu bình quân của cà phê trong năm đạt 1.727 USD/tấn, giảm 8,4% so với năm trước, tương đương mức giảm khoảng 157 USD/tấn", Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) phân tích.
2020 tiếp đà giảm của 2019 bởi tác động của dịch bệnh Covid-19 lan rộng trên toàn cầu, khi nhu cầu tiêu thụ cà phê giảm sút. Số liệu thống kê cho thấy, sản lượng xuất khẩu đạt 1,485 triệu tấn, trị giá 2,605 tỷ USD.
Hiện, cà phê Việt Nam đã có mặt tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung chủ yếu ở những thị trường lớn như Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ và Anh và các thị trường mới nổi như: Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Thailand…Trong đó, 2 thị trường nhập nhiều cà phê Việt Nam nhất là Đức và Hoa Kỳ.
Giá cà phê thế giới giảm
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
03/21 |
1310 |
-13 |
-0.98 |
8107 |
1328 |
1307 |
1323 |
1323 |
44279 |
05/21 |
1322 |
-13 |
-0.97 |
6369 |
1341 |
1319 |
1337 |
1335 |
27635 |
07/21 |
1338 |
-12 |
-0.89 |
3348 |
1357 |
1338 |
1351 |
1350 |
17736 |
09/21 |
1357 |
-11 |
-0.80 |
546 |
1373 |
1357 |
1369 |
1368 |
8370 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
03/20 |
124.05 |
0 |
0 |
18266 |
126.3 |
122.85 |
125.7 |
124.05 |
96196 |
05/20 |
126.2 |
0 |
0 |
8491 |
128.25 |
125 |
128 |
126.2 |
53515 |
07/21 |
128.1 |
0 |
0 |
3738 |
130.05 |
127 |
129.9 |
128.1 |
36525 |
09/21 |
129.9 |
0 |
0 |
2025 |
131.85 |
128.75 |
131.7 |
129.9 |
36597 |
Mở cửa phiên giao dịch sáng 23/1, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 giảm thêm 13 USD, xuống 1.310 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 5 cũng giảm thêm 13 USD, còn 1.322 USD/tấn, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều giảm trở lại. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 giảm 2,4 cent, xuống 124,05 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5 giảm 2,3 cent, còn 126,2 cent/lb, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Đồng Reais giảm mạnh 2,12 %, xuống ở mức 1 USD = 5,4770 Reais do lo ngại làn sóng dịch bệnh leo thang ở châu Âu lẫn châu Á và những bất ổn liên quan đến sự phục hồi kinh tế toàn cầu.Trong khi chứng khoán Mỹ tiếp tục hồi phục, nhất là các cổ phiếu công nghệ, đã đẩy hầu hết các thị trường hàng hóa sụt giảm trở lại.
Cho dù báo cáo mới nhất của Conab, dự kiến sản lượng Brasil vụ mùa năm nay sẽ giảm hơn 30% do khô hạn và vào năm giảm theo chu kỳ “hai năm một”, đã gặp sự phản đối của hiệp hội người trồng cà phê ở nhiều địa phương khi họ cho rằng vụ mùa cà phê Arabica có thể giảm tới một nửa.
Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, vẫn còn quá sớm để kết luận điều gì, trong khi con số dự báo vụ mùa của Conab đưa ra cũng không quá cách biệt so với con số khảo sát của nhiều thương nhân quốc tế cũng như trong nước. Đáng chú ý hơn cả là báo cáo tồn kho do ICE quản lý vẫn đang tăng mạnh, nguồn hàng vụ mới từ khắp nơi vẫn tiếp tục chảy về các kho ở Mỹ lẫn châu Âu. Nổi lo nguồn cung bị thắt chặt do dịch bệnh và phương tiện vận tải biển bị eo hẹp hầu như không còn. Lúc này việc kinh doanh trên các thị trường cà phê phái sinh là cơ hội của “gấu đầu cơ” khi kỳ vọng sẽ có nhiều quốc gia tăng cường các biện pháp kích thích kinh tế để ngăn chặn suy thoái do đại dịch covid-19 đang có dấu hiệu leo thang.
Áp lực bán phòng hộ hàng vụ mới từ Việt Nam không nhỏ nhưng thị trường cũng ghi nhận đã không có hiện tượng nhà nông bán hàng ồ ạt như thông lệ hàng năm để có tiền chi tiêu mua sắm cho kỳ lễ Tết Cổ truyền sắp tới.