Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka (OSE), giá cao su ngày 11/12/2020, lúc 13h00, kỳ hạn tháng 4/2021, giảm 1,3 JPY tương đương 0,6%, ghi nhận ở mức 231,9 JPY/kg, phiên giảm thứ 6 liên tiếp.
Giá cao su tại Thượng Hải – Shanghai Futures Exchange (SHFE)
Theo xu hướng thị trường, giá cao su tự nhiên kỳ hạn trong phiên sáng nay tiếp tục giảm trên sàn giao dịch Thượng Hải.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 0,2% xuống 14.345 CNY/tấn.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ - Steven Mnuchin cho biết, các cuộc đàm phán giữa các thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ về gói cứu trợ Covid-19 đang có nhiều tiến triển. Trong khi đó, các trường hợp nhiễm Covid-19 tăng đột biến đang đè nặng lên hoạt động kinh tế, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu đối với nhiều mặt hàng trong đó có cao su.
Gói kích thích kinh tế mới trị giá hơn 700 tỷ USD của Chính phủ Nhật Bản vẫn chưa có nhiều tác động cho thị trường hàng hóa, trong đó có cao su.
Theo nhiều bình luận trên Japan Exchange Group (sàn giao dịch Osaka), giá giảm đã ảnh hưởng đến tâm lý bán ra của các nhà đầu tư. Vào cuối năm, tình hình sản xuất cao su giảm so với các mặt hàng thiết yếu khác.
Dịch bệnh COVID-19 dã quay trở lại các quốc gia Châu Á cũng gây nhiều hoang mang cho thị trường.
Cách nào để sản phẩm cao su Việt thâm nhập thị trường châu Âu?
Tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm cao su vào thị trường Châu Âu là rất lớn song để thâm nhập các quốc gia này, doanh nghiệp Việt phải có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) cũng như các tiêu chuẩn về lao động, môi trường khác.
Theo ông John Heath, thị trường châu Âu hiện đang dành nhiều sự quan tâm đến cao su có chứng chỉ FSC. Tất nhiên, sự quan tâm này không thể chuyển thành nhu cầu thực tế hay sản lượng tiêu thụ, nhưng cho đến khi có thêm nguồn cung, rất nhiều đơn vị tiêu thụ đã cam kết sẽ mua cao su có chứng chỉ FSC ngay khi sản phẩm được chứng nhận có mặt trên thị trường. Ông John Heath hi vọng sẽ có thêm 16.000 tấn cao su thiên nhiên (CSTN) được chứng nhận vào năm 2020.
Sở dĩ các doanh nghiệp nhập khẩu CSTN như Corrie MacColl quan tâm đến những sản phẩm đạt chứng chỉ FSC là do bền vững là chủ đề sôi nổi tại các quốc gia Châu Âu nhiều năm nay. Riêng với ngành CSTN đồng thời cũng gây chú ý đến chính quyền, tổ chức phi chính phủ (NGOs) và người tiêu dùng, vì có thông tin tiêu cực cho rằng ngành này đang tồn tại một số vấn đề về quyền con người (chiếm đoạt đất, ngược đãi lao động nhập cư, thuê lao động trẻ em, trả lương thấp...) và về môi trường (phá rừng, gây tổn thất đa dạng sinh học...).
Đây cũng là lý do việc gia tăng tham gia của luật pháp EU về lĩnh vực bền vững nhằm buộc các công ty phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền của châu Âu về vi phạm nhân quyền ở bất kỳ đâu trong chuỗi cung ứng CSTN, ngay cả khi vi phạm đó vượt quyền kiểm soát hoặc hiểu biết của họ. Cụ thể ở Thụy Sĩ có sáng kiến "Konzern-verantwortungsinitiative" - Sáng kiến doanh nghiệp có trách nhiệm" ràng buộc các công ty nước này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có hành vi vi phạm quyền con người hoặc có hoạt động kinh doanh gây thiệt hại đến môi trường dù ở bất kỳ đâu trên thế giới.
Trên thực tế tại Việt Nam từ nhiều năm qua ngành cao su đã có những hoạt động để thúc đẩy phát triển bền vững cho các sản phẩm từ cao su, từ đó nâng cao giá trị cao su xuất khẩu. Cụ thể, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), ngành đã đưa ra các hoạt động như xây dựng thương hiệu ngành cao su Việt Nam; Xây dựng hướng dẫn quản lý sản xuất CSTN bền vững; Tăng cường trao đổi thông tin thị trường, xúc tiến thương mại; Giới thiệu mô hình sản xuất cao su bền vững và có trách nhiệm… VRA cũng thực hiện quảng bá rộng rãi "Nhãn hiệu chứng nhận "Cao su Việt Nam" và hỗ trợ hội viên tuân thủ Hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia (VFCS) cũng như tích cực gia tăng nhận thức về phát triển bền vững và có trách nhiệm cho doanh nghiệp.
Giá cao su xuất khẩu tăng 15% trong tháng 11
So với tháng 11/2019 tăng 0,7% về lượng và tăng 15,8% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân tăng 15% so với cùng kì năm 2019 lên mức 1.513 USD/tấn.
Lũy kế 11 tháng năm 2020, xuất khẩu cao su ước đạt 1,51 triệu tấn, trị giá gần 2 tỉUSD, tăng 0,4% về lượng, nhưng giảm 1,4% về trị giá so với cùng kì năm 2019, giá xuất khẩu bình quân ở mức 1.324 USD/tấn, giảm 1,8% so với cùng kì năm 2019.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 10 tháng năm 2020, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS: 400280) là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, chiếm 65,3% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với 852.070 tấn, trị giá 1,1 tỉ USD, tăng 27,5% về lượng và tăng 22,6% về trị giá so với cùng kì năm 2019.
Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 98,9% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu trong 10 tháng năm 2020, với 842.890 tấn, trị giá 1,09 tỉ USD, tăng gần 27% về lượng và tăng 22,2% về trị giá so với cùng kì năm 2019.
Trong 10 tháng năm 2020, một số mặt hàng cũng đạt được sự tăng trưởng khá so với cùng kì năm 2019 như: Latex, cao su tái sinh, cao su dạng Crếp, Skim block, SVR CV40.
Về giá xuất khẩu phần lớn các chủng loại cao su đều có xu hướng giảm so với cùng kì năm 2019, trừ một số chủng loại có giá xuất khẩu trung bình tăng như: cao su hỗn hợp, cao su tái sinh, SVR CV50.