Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka (OSE), giá cao su ngày 28/1/2021, lúc 13h00, kỳ hạn tháng 6/2021, giảm xuống mức 3,3 JPY, tương đương 1,4%, ghi nhận ở mức 226 JPY/kg (2,2 USD)/kg.
Giá cao su tại Thượng Hải – Shanghai Futures Exchange (SHFE)
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 75 CNY, xuống ở 14.165 CNY (2.183 USD)/tấn.
Thành phố Bắc Kinh thắt chặt hạn chế đối với du khách trong nước trước mùa du lịch Tết Nguyên đán cao điểm, yêu cầu xét nghiệm Covid-19 âm tính ngay cả đối với những cá nhân đến từ các khu vực có nguy cơ thấp của Trung Quốc.
Các trường hợp nhiễm COVID-19 tại Trung Quốc - nước mua hàng đầu đã giảm bớt, khiến các nhà đầu tư tranh thủ chốt lời.
Lợi nhuận tại các công ty cao su ở Trung Quốc trong tháng 12/2020 đã tăng 20,1% so với cùng tháng năm ngoái, đạt 707,11 tỷ CNY (109 tỷ USD), đánh dấu tháng tăng trưởng lần thứ 8 liên tiếp.
Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài từ ngày 11-17/02/2021 khiến hạn chế nhu cầu ở nước tiêu thụ cao su hàng đầu thế giới.
Bờ Biển Ngà đã xuất khẩu 1.205.726 tấn cao su tự nhiên trong năm 2020, tăng 34% so với năm 2019.
Bờ Biển Ngà là nước sản xuất ca cao hàng đầu thế giới, cũng là nước trồng cao su tự nhiên hàng đầu châu Phi. Xuất khẩu tăng trong những năm gần đây do người nông dân bị thu hút bởi thu nhập từ trồng cao su ổn định hơn nên đã chuyển dần từ trồng ca cao sang cao su.
Tại Ấn Độ, giá cao su giao ngay cuối phiên 27/01 đồng loạt giảm trong khi các hợp đồng kỳ hạn giao dịch ổn định.
Giá cao su RSS 4 đã giảm xuống ngưỡng 151 rupee/kg, còn trong đại lý được báo giá thấp hơn ở mức 147 rupee/kg.
Nguồn cung cao su Đông Nam Á đang bị thời tiết xấu ảnh hưởng đến sản lượng mủ tự nhiên. Trong khi đó, hoạt động xuất nhập khẩu đang gặp khó khăn do dịch bệnh, các cảng biển hoạt động khó khăn khi tình trạng thiếu container khá trầm trọng.
Trên sàn giao dịch hàng hóa Ấn Độ MCX, giá cao su thiên nhiên giao tháng 1 tăng lên mức 152,70 rupee/ kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn SICOM Singapore giảm 1,2% chốt tại 154,2 US cent/kg.
Chính phủ Ấn Độ dự chi 11 tỷ Rupee mở rộng ngành công nghiệp cao su
Asam và các bang Đông Bắc khác ở Ấn Độ đang có kế hoạch mở rộng trồng cao su trong vòng 5 năm tới.
Khi Ấn Độ giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, Assam có tiềm năng trở thành nhà xuất khẩu cao su thiên nhiên lớn nhất vùng Đông Bắc. Hiện nay, chỉ có khoảng 57% nhu cầu cao su được đáp ứng từ các khu vực sản xuất trong nước. Trong đó, bang Kerala chiếm sản lượng cao nhất với diện tích tự nhiên trên 600.000 ha, Tripura với 85.083 ha.
Chính phủ đang đẩy mạnh các kế hoạch mới tăng cường việc trồng cao su như một chương trình quan trọng của đất nước. Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp nước này, ông Anand Sharma đã thúc giục chính quyền các bang có liên quan dành ưu tiên cho việc mở rộng ngành công nghiệp cao su thêm khoảng 500.000 ha trong vòng 5 năm tới. Theo đó, khoảng 11 tỷ Rupee (khoảng 150,7 triệu USD) sẽ được đầu tư vào Assam và các bang lân cận để đạt được các mục tiêu sản xuất này. Theo các nguồn tin, Ấn Độ đã nhập khẩu 457.000 tấn cao su vào năm 2020, 487.000 tấn năm 2019 và 601.000 tấn năm 2018, chủ yếu từ Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam.
Xuất khẩu cao su Thái Lan thu về hơn 5,7 tỷ USD
Xuất khẩu cao su của Thái Lan sang Trung Quốc chiếm 58,51% tổng lượng cao su xuất khẩu, đạt 2,45 triệu tấn, trị giá 99,28 tỷ Baht, tương đương với 3,27 tỷ USD, tăng 4,6% về lượng và tăng gần 1% về trị giá.
Về cơ cấu chủng loại xuất khẩu, trong 11 tháng năm 2020, Thái Lan xuất khẩu 2,4 triệu tấn cao su tự nhiên (mã HS 4001), trị giá 96,25 tỷ Baht, tương đương 3,17 tỷ USD, giảm 17% về lượng và giảm 19% về trị giá so với 11 tháng năm ngoái.
Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 36,2%, đạt 869,62 nghìn tấn, trị giá 34,59 tỷ Baht (tương đương 1,14 tỷ USD), giảm 22,4% về lượng và giảm 25% về trị giá.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu cao su tự nhiên của Thái Lan trong 11 tháng năm 2020 có sự thay đổi khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Malaysia và Hàn Quốc tăng, tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ giảm.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu cao su tổng hợp của Thái Lan trong 11 tháng năm 2020 có sự thay đổi khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Malaysia, Mỹ và Việt Nam giảm, trong khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc lại tăng mạnh.