Giá tiêu cao nhất ở ngưỡng 69.500 đồng/kg được ghi nhận ở Bà Rịa - Vũng Tàu, thấp nhất 65.500 đồng/kg tại Gia Lai.
Hôm nay giá tiêu tại Đắk Nông (Gia Nghĩa) và Đắk Lắk (Ea H'leo), dao động trong mức 67.000 đồng/kg.
Giá tiêu tại Gia Lai, dao động ở ngưỡng 66.000 đồng/kg.
Giá tiêu tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 500 đồng/kg, dao động trong ngưỡng 69.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Bình Phước tăng 500 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 68.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Đồng Nai tăng 500 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 66.500 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
ĐẮK LẮK |
|
|
— Ea H'leo |
67.000 |
0 |
GIA LAI |
|
|
— Chư Sê |
65.500 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
— Gia Nghĩa |
67.000 |
0 |
BÀ RỊA - VŨNG TÀU |
|
|
— Tiêu |
68.500 |
0 |
BÌNH PHƯỚC |
|
|
— Tiêu |
68.500 |
0 |
ĐỒNG NAI |
|
|
— Tiêu |
66.500 |
0 |
Giá tiêu trong nước hôm nay chững lại so với hôm qua. Dự báo giá tiêu tuần này, chuyên gia cho biết đã có những dấu hiệu tích cực từ thị trường. Có khả năng giá tiêu nội địa tuần này lấy lại mốc 70.000 đồng/kg.
Theo một số phân tích kỹ thuật của Simexco, giá sẽ thuần (đang nằm ở mức 70.000 - 72.000) có thể lên 75.000 đồng/kg. Năm tới sẽ lên được 90.000 đồng/kg. Nhưng nếu duy trì ở mức 70.000 đồng/kg lâu, thì có thể thị trường mất niềm tin, dao động về 65.000 đồng/kg sau đó mới lên giá lại được và trung bình giá năm sau sẽ cao hơn năm nay.
Giá tiêu thế giới
Khảo sát phiên giao dịch ngày 13/11, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 4.090 USD/tấn, giảm 0,12%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 3.100 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 6.196 USD/tấn, giảm 0,13%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.100 USD/tấn.
Giá tiêu thế giới hôm nay trái chiều sau 3 tuần giảm, một số thị trường hồi phục nhẹ.
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) công bố số liệu xuất nhập khẩu 10 tháng năm 2023. Theo đó, tính đến hết tháng 10/2023, Việt Nam xuất khẩu được 223.578 tấn hồ tiêu. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 750,8 triệu USD, tiêu đen đạt 640,2 triệu USD, tiêu trắng đạt 110,6 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái, lượng xuất khẩu tăng 14,6% tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu lại giảm 11,7%.
Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 10 tháng đạt 3.553 USD/tấn, tiêu trắng đạt 5.082 USD/tấn, so với cùng kỳ năm trước, giá xuất khẩu tiêu đen giảm 17,6% đối với tiêu đen và 15,6% đối với tiêu trắng.
Trong quý III năm nay, giá tiêu đen nhìn chung ổn định tại Việt Nam, Brazil, nhưng tăng mạnh tại Indonesia và Ấn Độ. Tại Indonesia, nguồn cung eo hẹp đã đẩy giá tiêu đen Lampung tăng tổng cộng 15% trong quý III, từ 3.735 USD/tấn lên mức 4.280 USD/tấn.
Giá tiêu Ấn Độ cũng tăng 30% kể từ tháng 7 do triển vọng nhu cầu cao trong mùa Lễ hội, trong khi tồn kho giảm và các hoạt động đầu cơ tích trữ tăng lên do dự báo thiếu hụt nguồn cung trong vụ tới do ảnh hưởng El Nino. Tại Brazil, giá tiêu đen xuất khẩu đã giảm 13,4% từ 3.350 USD/tấn xuống còn 2.900 USD/tấn vào tháng 8, nhưng sau đó đã phục hồi và tăng trở lại mức 3.350 USD/tấn vào cuối quý III.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen đi ngang ở mức 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l và 3.600 USD/tấn loại 550g/l. Thị trường có phần trầm lắng do nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc chậm lại do chi tiêu của người tiêu dùng đang giảm và giá nội địa vẫn thấp hơn Việt Nam.