Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam

(VOH) - Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được nhiều ý kiến đồng tình sâu sắc.

Qua bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư phân tích thấu đáo, luận giải cặn kẽ trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phản ánh cả tầm tư tưởng - lý luận và định hướng thực tiễn; Có tác động to lớn, sâu rộng đến tư tưởng, tình cảm, hành động của mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Một điểm nhấn của bài viết là đưa ra những lý lẽ sâu sắc, luận cứ thuyết phục về tính tất yếu thay thế của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản. Lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là giải pháp đúng đắn để mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.

Sự nghiệp đổi mới phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, mà còn là con đường duy nhất đúng đắn để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

VOH mời các bạn cùng đến với ý kiến từ các nhà nghiên cứu, lý luận, học giả đã đăng trên các phương tiện truyền thông chung quanh bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Những ý kiến chung quanh con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Những ý kiến chung quanh con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

PGS, TS. Nguyễn Duy Bắc

Bài viết đã xác định mô hình CNXH Việt Nam và định hướng rõ hơn về con đường đi lên CNXH của Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, CNXH Việt Nam là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; Là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Chủ nghĩa xã hội Việt Nam gắn liền với độc lập dân tộc, quyền tự quyết của dân tộc, gắn liền với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Chỉ có CNXH mới bảo đảm độc lập cho dân tộc, quyền tự quyết của dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, của mọi người, mọi dân tộc trên đất nước ta.

Bài viết chỉ rõ, dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta đã cho phép xác định được mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là: Xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu, mô hình đó, cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, xây dựng xã hội XHCN Việt Nam là xây dựng một xã hội mới về chất, đó là một sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn và phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, cạnh tranh với nhau.

Đi lên CNXH là quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố XHCN để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng những nhân tố, thiết chế, thể chế phi XHCN, không phù hợp với chế độ XHCN. Thực hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng mới mẻ, khó khăn, lâu dài; vì thế, phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.

Thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng CNXH phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, của bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản. Vì vậy, sự nghiệp xây dựng CNXH phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng cách mạng chân chính, không có lợi ích nào khác, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.

Những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

GS, TS. Phùng Hữu Phú

Về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập và luận giải sâu sắc, thuyết phục về nhiều vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nổi bật là vấn đề thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết nhấn mạnh tính tất yếu và những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện ở một số nội dung cốt lõi:

Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là mục tiêu, lý tưởng mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; mục tiêu cao cả đó phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của thời đại.

Hai là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình biến đổi cách mạng lâu dài, gian khổ, bởi lẽ đây là quá trình “kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất”, “phải tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ của lực lượng sản xuất rất thấp; lại trải qua mấy chục năm chiến tranh ác liệt để lại hậu quả nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên chống phá..., do vậy thời kỳ quá độ càng lâu dài, khó khăn hơn.

Ba là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cùng tồn tại đan xen, đấu tranh gay go, phức tạp, quyết liệt giữa các nhân tố xã hội chủ nghĩa và các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Bốn là, quá độ lên chủ nghĩa xã hội “là một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”.

Vì sao Việt Nam lại đi lên chủ nghĩa xã hội?
Bác Hồ thăm Nhà máy phích nước Rạng Đông, năm 1964. Ảnh: Baotanghochiminh.vn

Vì sao Việt Nam lại đi lên chủ nghĩa xã hội?

PGS, TS. Đỗ Thị Thạch

Có thể khẳng định, tư tưởng bao trùm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tập trung làm rõ hai câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lại đi lên chủ nghĩa xã hội?

Câu hỏi thứ hai đã được Tổng Bí thư làm rõ trong luận điểm: Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.

Sự lựa chọn này không phải là nhất thời, mà ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, kể cả khi phải trải qua những thời điểm khó khăn, cam go đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng Việt Nam, thì chúng ta vẫn kiên định, kiên trì với mục tiêu duy nhất, trước sau như một là đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, ngay trong Cương lĩnh năm 1930, Đảng khẳng định: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.

Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng và đổ vỡ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta tiếp tục kiên định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Đặc biệt, trong Cương lĩnh tại Đại hội XI (năm 2011) của Đảng, chúng ta một lần nữa khẳng định quyết tâm: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"; quan điểm chỉ đạo đầu tiên của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới là “… kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, đây là sự lựa chọn hết sức khoa học, có căn cứ lý luận và thực tiễn trong nước và thế giới, lịch sử và hiện tại, đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, đây là một xã hội “… phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”; là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Rõ ràng, đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp cháy bỏng không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại đều hướng đến.

Thứ hai, đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân”.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là những thành tựu của 35 năm đổi mới giúp “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng hùng hồn và thuyết phục, tự nó khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn đối với tương lai của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, hiện nay, chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so với trước đây.

Tuy nhiên, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”. Các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra “đang đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại”. Nhân dân Việt Nam không cần một xã hội đầy rẫy bất công, “không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái”. Chúng ta cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.

Thứ tư, khủng hoảng và đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, theo ý kiến của Tổng Bí thư trong bài viết, không phải là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin như những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị, kể cả sự phụ họa của một số người bi quan, dao động trong hàng ngũ cách mạng.

Tất cả những người cộng sản chân chính đều thấy rõ nguyên nhân chủ yếu của sự kiện này xuất phát từ việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách máy móc, thiếu sáng tạo, thậm chí sai lầm, đặc biệt là sự phản bội lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội một cách trắng trợn, sự thoái hóa, biến chất trầm trọng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu của một số đảng cộng sản ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu khi đó.

Bản chất của chủ nghĩa xã hội

PGS, TS. Lưu Ngọc Khải

Tôi rất tâm đắc với các nội dung thể hiện trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhất là về bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự vì lợi ích của nhân dân lao động, chứ không phải vì lợi nhuận và chà đạp lên phẩm giá con người như trong xã hội tư bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư cho rằng đó là “bước tiến đột phá về lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới về kinh tế thị trường, vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vì kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân loại đạt được trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không phải là giá trị riêng có của giai cấp tư sản.

Bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với “mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân là chủ”, như Tổng Bí thư khẳng định.

Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Bản chất xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng vì con người. Trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định ở những nước tư bản thường diễn ra những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã lan tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội ngày càng trầm trọng…

Trong khi đó, chúng ta không chạy theo kinh tế đơn thuần và bằng mọi giá, mà luôn luôn gắn kết hài hòa với yếu tố xã hội, bảo đảm lợi ích chân chính của nhân dân lao động. Điều đó có nghĩa là, không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta còn đang phát triển, gặp nhiều khó khăn, song Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng thực hiện các chính sách xã hội, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế…

Mỗi chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta đều thấm đượm và gắn chặt với chính sách xã hội, coi trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vì một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, khuyến khích nhân dân làm giàu.

Trong xã hội của ta, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới… Đó chính là những điều thể hiện rõ tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa mà cả dân tộc ta đang chung sức, đồng lòng xây dựng, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.

Đêm 7/11/1917 quân khởi nghĩa tấn công vào Cung điện Mùa Đông ở Petrograd, Cách mạng Tháng Mười Nga
Đêm 7/11/1917 (25/10 theo lịch Nga cũ), quân khởi nghĩa tấn công vào Cung điện Mùa Đông ở Petrograd, mở đầu cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Những mâu thuẫn mang tính bản chất không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản

GS, TS. Vũ Văn Hiền

Cho dù chủ nghĩa tư bản ngày nay có những điều chỉnh, biểu hiện mới trong hình thức quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, gồm:

Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Quy luật bóc lột giá trị thặng dư vẫn luôn là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, dù được biểu hiện dưới những hình thức tinh vi hơn, khiến sự phân cực giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội ngày càng tăng lên trong xã hội tư bản.

Theo đó, cả sự bần cùng hóa tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng, tệ phân biệt chủng tộc, tình trạng bất công, sự suy đồi về xã hội, văn hóa và đạo đức, các tệ nạn xã hội, tội ác và bạo lực… cũng ngày càng trầm trọng.

Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển bị lệ thuộc với những nước đế quốc.

Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa các trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn này tồn tại một cách khách quan và là mâu thuẫn xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nó biểu hiện rõ trong mưu đồ của các thế lực đế quốc lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và một số nước Đông Âu để đẩy mạnh những cuộc phản kích bằng mọi thủ đoạn nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Ngày nay, tuy hình thức biểu hiện có những điểm khác trước đây, song đây luôn là cuộc đấu tranh quyết liệt, mang tính sống còn…

Những mâu thuẫn này là nan giải bởi chủ nghĩa tư bản từ khi ra đời đến nay dù gắng gượng có sự điều chỉnh để thích nghi với bối cảnh mới và để tiếp tục tồn tại, nhưng vẫn không thể khắc phục được những căn bệnh cố hữu của nó. Bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản không che đậy được những ung nhọt và xấu xa bên trong nó.

Ngay cả một số nước trên thế giới từng từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa để đi theo con đường chủ nghĩa tư bản, thì đã qua 30 năm, những nước này vẫn phải đối mặt thường xuyên với sự bất ổn về chính trị, những khó khăn chồng chất về kinh tế - xã hội…, khiến nhiều người thấy nuối tiếc những năm tháng trước đây, khi còn hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Thấy rõ những mâu thuẫn bản chất nan giải của chủ nghĩa tư bản để càng thấm thía hơn, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi, “chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người.

Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội... Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một ít cá nhân và các phe nhóm”, như bài viết của GS, TS. Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.

Những thành tựu to lớn đơm hoa kết trái từ thực hiện đường lối đổi mới của đất nước ta, với những kết quả rất cụ thể, mọi người dân đều cảm nhận được và được thụ hưởng những thành quả đó, càng là minh chứng cho đường lối phát triển đúng đắn của Đảng ta, đồng thời là cơ sở thực tiễn phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng - một Đảng hội đủ năng lực, uy tín, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; tuyệt đối không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được - tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng của Việt Nam đến bến bờ phồn vinh, hạnh phúc.

Ý nghĩa của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

PGS, TS. Nguyễn Văn Giang

Bài học lớn của thực tiễn cách mạng Việt Nam được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ban hành năm 1991 là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.

Theo lô-gíc tự nhiên thì sự lãnh đạo của Đảng cũng là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới hiện nay. Bài viết của Tổng Bí thư đã khẳng định nhận thức về quy luật này và đi đến kết luận quan trọng: “Chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Tính đặc biệt của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay xuất phát từ nhiều lý do, trong đó cần chú ý là:

- Theo quy luật, tổ chức nào cũng chịu sự chi phối của quy luật vòng đời tổ chức, tức là có sinh ra - phát triển - và thoái hóa, không có tổ chức vĩnh cửu. Muốn kéo dài sự tồn tại, phát triển của tổ chức thì phải thường xuyên, nỗ lực đổi mới, tái tổ chức. Đảng cũng là một tổ chức nên muốn tồn tại phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Công cuộc đổi mới có tính cách mạng với không ít khó khăn và những thách thức mới mẻ, nghiêm trọng, nếu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không được coi trọng đúng mức, Đảng không đủ trí tuệ, năng lực, phẩm chất thì không thể lãnh đạo giải quyết được, thậm chí có thể sẽ phạm những sai lầm không thể sửa chữa, mà Đảng Cộng sản Liên Xô là một bài học nhãn tiền vẫn nóng hổi.          

- Tham nhũng là một “căn bệnh ung thư” gắn liền với tha hóa quyền lực và có thể sẽ hủy hoại tất cả. Thực tiễn đổi mới vừa qua cho thấy, có lúc tuy bước đầu đẩy mạnh được phát triển kinh tế nhưng do công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không được thật sự chú trọng, hiệu quả; tham nhũng không được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn diễn biến phức tạp, lan vào mọi lĩnh vực, mọi cấp, không chỉ gây thiệt hại đặc biệt lớn về kinh tế mà còn làm triệt tiêu dần động lực phát triển để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đe dọa sinh mệnh của Đảng, của chế độ.

Do đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, chống tiêu cực, giữ gìn sự trong sạch của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của cách mạng nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Thực tiễn đó càng cho thấy thêm sự đúng đắn của luận điểm lớn trong bài viết: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Tính ưu việt, những giá trị tiến bộ, nhân văn và việc xây dựng xã hội, văn hóa
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm nơi in tranh dân gian Đông Hồ tại Di tích lịch sử - văn hóa Đền Đô ở khu phố Thượng, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN 

Tính ưu việt, những giá trị tiến bộ, nhân văn và việc xây dựng xã hội, văn hóa, con người xã hội chủ nghĩa

PGS, TS. Cao Thu Hằng

Các luận điểm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, đồng thời chỉ rõ đặc trưng và cơ sở nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Thứ nhất, về đặc trưng, sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự phát triển khách quan của xã hội loài người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định, sự vận động của các xã hội trong lịch sử là một quá trình lịch sử - tự nhiên và xu hướng vận động của loài người tất yếu sẽ dẫn đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình vận động đó, xét một cách tổng thể, xã hội phát triển sau bao giờ cũng cũng kế thừa những giá trị tiến bộ và tiến bộ hơn xã hội trước. Điều này cũng được Tổng Bí thư đề cập khi nhắc tới một số thành tựu, giá trị văn minh của nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản mà trong quá trình phát triển, xây dựng xã hội mới, chúng ta cần phải tiếp thu chọn lọc, nếu không, có thể rơi vào chủ nghĩa hư vô, phủ định sạch trơn; mặt khác, cần kiên quyết bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, Tổng Bí thư khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng không chỉ tiến bộ hơn các xã hội đã có trong lịch sử, mà còn là một xã hội nhân văn, khi những gì tốt đẹp nhất là dành cho toàn thể nhân dân, chứ không phải chỉ dành cho một nhóm người đặc quyền, đặc lợi như xã hội tư bản. Đây là sự khác nhau về bản chất giữa xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản nói riêng, các (kiểu, loại) xã hội đã tồn tại trong lịch sử nói chung.

Thứ hai, cơ sở nền tảng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là, để hướng tới xây dựng xã hội có các giá trị tiến bộ, nhân văn, cần dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người.

Luận điểm của Tổng Bí thư nhấn mạnh vai trò của lợi ích với tư cách nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội. Song, ở đây không phải là lợi ích riêng của một nhóm người nào trong xã hội, mà là lợi ích chung của xã hội. Lịch sử đã chứng minh, nếu xã hội phát triển chỉ vì lợi ích riêng của một nhóm người nào đó thì tất yếu dẫn đến những mâu thuẫn xã hội, bất công và thậm chí là sự sụp đổ của xã hội đó.

Xã hội là tổng thể những cá nhân riêng lẻ và mỗi người cần được tôn trọng như nhau, không thể nhân danh lợi ích chung mà bỏ qua lợi ích riêng; ngược lại, lợi ích của mỗi cá nhân là chính đáng, nhưng không thể là lợi ích vô độ, gây ảnh hưởng đến cá nhân khác và xã hội.

“Lợi ích chính đáng” là lợi ích mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần giải quyết biện chứng, hài hòa các mối quan hệ lợi ích trên, tránh cực đoan hay dân túy.

Văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

GS, TS. Đinh Xuân Dũng

Về văn hóa, bài viết của Tổng Bí thư tổng kết, khái quát một cách cô đọng và căn cốt những quan điểm cơ bản của Đảng ta về văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể nêu tổng quát một số nội dung quan trọng sau:

Văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một thành tố hữu cơ và giữ vị trí quan trọng trong nội hàm của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Đảng ta. Từ đó có thể xác định rằng sẽ không có chủ nghĩa xã hội đích thực (hiện thực) nếu không xây dựng được nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Để phát huy vai trò của văn hóa trong chủ nghĩa xã hội, trong xây dựng và phát triển đất nước bền vững, cần phải làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy tối đa văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh của dân tộc, của đất nước và trở thành động lực của sự phát triển - ba vai trò đó gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vững chắc của dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Gắn chặt vai trò của văn hóa với nhiệm vụ xây dựng con người. Xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển văn hóa vì mục tiêu cao nhất là nuôi dưỡng, xây dựng các giá trị văn hóa trong nhân cách con người.

Phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Xử lý biện chứng các mối quan hệ trên là một yêu cầu và định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Xây dựng các giá trị căn cốt của văn hóa trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm: Phẩm chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và sự hòa quyện giữa hai phẩm chất đó tạo nên giá trị tổng quát của văn hóa Việt Nam; chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt, chủ đạo trong nền văn hóa Việt Nam; nền văn hóa mang các giá trị tiến bộ, nhân văn; nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; nền văn hóa biết tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại.

Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người và phát triển văn hóa là một quá trình đấu tranh rất cam go, gian khổ, nên cần kết hợp giữa “xây” - “chống” và giải quyết biện chứng quan hệ này; nhận diện và xử lý cuộc đấu tranh giữa giá trị và phản giá trị; cần có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sáng tạo mới.

Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội 
Các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội. Hình minh họa

Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội 

TSNguyễn Hữu Dũng

Về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội thể hiện trong bài viết của Tổng Bí thư, theo tôi, đây là kết quả của sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 35 năm đổi mới, khẳng định chủ trương, quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng về giải quyết mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội trong chính sách phát triển quốc gia, phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước, theo nguyên tắc “bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội”.

Bởi vì, ngay từ Đại hội VI của Đảng, sau đó tiếp tục được kế thừa, phát triển trong các kỳ đại hội của Đảng sau này, đều chỉ rõ mối quan hệ biện chứng này, đó là: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, do đó phải bảo đảm “sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Đó là vấn đề rất cơ bản phải được thể hiện và thực hiện trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thế giới ngày nay đang hướng tới phát triển bền vững. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, công bằng và tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường; coi con người là trung tâm của sự phát triển bền vững. Chiến lược tăng trưởng hướng tới chất lượng cao của APEC (năm 2010) cũng nhằm bảo đảm “tăng trưởng cân bằng, hài hòa, bao trùm, an toàn và trên cơ sở sáng tạo”.

Như vậy, việc “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách phát triển” ở Việt Nam chính là sự tiếp cận ở tầm chiến lược phù hợp với xu hướng tiến bộ chung của sự phát triển bền vững và tăng trưởng hướng tới chất lượng cao, tăng trưởng bao trùm của cộng đồng quốc tế trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập.

Để thực hiện mục tiêu trên, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển bền vững ở nước ta giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 theo hướng bảo đảm duy trì về thực chất tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Thể chế phát triển bền vững được hoàn thiện sẽ là hành lang pháp lý, là công cụ, phương tiện xây dựng thành công một xã hội Việt Nam hoà bình, thịnh vượng, phát triển bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững, là điều kiện quan trọng để hiện thực hoá và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.