Tổng kim ngạch trao đổi hàng hóa song phương đạt gần 36 tỷ SGD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2024 và đã vượt 13,56% so với tổng kim ngạch cả năm 2024. Đây là mức kim ngạch xuất nhập khẩu song phương cao nhất từ trước tới nay, phản ánh sự gắn kết ngày càng sâu giữa hai nền kinh tế trong chuỗi cung ứng khu vực.
Riêng tháng 11/2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore với Việt Nam đạt 2,9 tỷ SGD, tăng 15,8% so với cùng kỳ. Xuất khẩu của Singapore sang Việt Nam đạt 1,8 tỷ SGD, gần như đi ngang khi chỉ tăng 0,1%; còn nhập khẩu từ Việt Nam đạt 1,1 tỷ SGD, tăng mạnh 55,2%.
Cơ cấu xuất khẩu của Singapore cho thấy vai trò trung chuyển vẫn rất lớn: giá trị hàng sản xuất nội địa xuất sang Việt Nam đạt 450,3 triệu SGD (giảm 13,4%), trong khi nhóm tạm nhập tái xuất (trung chuyển) sang Việt Nam đạt 1,4 tỷ SGD, tăng 5,6%.
Tính gộp 11 tháng, xuất khẩu của Singapore sang Việt Nam đạt 24,5 tỷ SGD, tăng 17,7%; nhập khẩu từ Việt Nam đạt 11,5 tỷ SGD, tăng 47,2%. Nếu nhìn theo số liệu “xuất - nhập” thông thường, Singapore xuất siêu sang Việt Nam khoảng 13 tỷ SGD, tương đương cùng kỳ năm trước.
Bức tranh cán cân thay đổi đáng kể khi tách riêng yếu tố trung chuyển: hàng tạm nhập tái xuất qua Singapore lên tới 17,9 tỷ SGD, chiếm hơn 73% tổng kim ngạch xuất khẩu của Singapore vào Việt Nam. Với cách tiếp cận theo xuất xứ hàng hóa, Việt Nam lại xuất siêu 4,88 tỷ SGD trong 11 tháng.
Ở chiều xuất khẩu từ Singapore sang Việt Nam, hai nhóm hàng dẫn đầu tiếp tục là máy móc, thiết bị điện và bộ phận (HS 85) và nhiên liệu, dầu mỏ, sản phẩm chưng cất… (HS 27). Tổng giá trị của hai nhóm lên tới 16,5 tỷ SGD, chiếm 67,5% tổng xuất khẩu của Singapore sang Việt Nam trong 11 tháng.
Tuy cùng “đứng top”, bản chất của hai nhóm này rất khác nhau: nhóm HS 85 có giá trị xuất khẩu 12,8 tỷ SGD, tăng 28,2% nhưng tỷ lệ tạm nhập tái xuất từ nước thứ ba chiếm tới 96,8%.
Ngược lại, nhóm HS 27 đạt 3,7 tỷ SGD, tăng 14,2% và chủ yếu là sản phẩm sản xuất trong nước tại Singapore, khi tỷ lệ giá trị nội địa trong xuất khẩu sang Việt Nam lên tới 99%.
Ngoài hai nhóm “xương sống”, Top 15 nhóm hàng xuất khẩu chính của Singapore sang Việt Nam còn ghi nhận một số điểm nhấn: nhóm máy và thiết bị cơ khí, nồi hơi, bộ phận (HS 84) đạt 2 tỷ SGD, tăng 39,1%; nhựa và sản phẩm từ nhựa (HS 39) đạt 929,8 triệu SGD, giảm 9,5%; tinh dầu, nước hoa, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh (HS 33) đạt 553,7 triệu SGD, giảm 8%.
Những con số này cho thấy thương mại song phương không chỉ chạy theo hai “động cơ” điện tử - năng lượng, mà vẫn có nền hàng tiêu dùng, vật liệu và công nghiệp phụ trợ tương đối đa dạng, dù tăng trưởng không đồng đều.
Ở chiều Singapore nhập khẩu từ Việt Nam, nhóm HS 85 tiếp tục giữ vị trí số 1 với gần 5,9 tỷ SGD, tăng vọt 105,5% và chiếm 51,9% tổng giá trị nhập khẩu từ Việt Nam. Đây là chỉ dấu rõ nét về vai trò ngày càng lớn của Việt Nam trong chuỗi cung ứng điện - điện tử và linh kiện, từ sản xuất, lắp ráp đến xuất khẩu. Xếp thứ 2 và 3 lần lượt là nhóm HS 84 đạt 2,7 tỷ SGD, tăng 68,3%; và thủy tinh, sản phẩm thủy tinh (HS 70) đạt gần 774,4 triệu SGD, tăng 3,1%.
Trong Top 15 nhóm hàng nhập khẩu chính, phần lớn các nhóm còn lại ghi nhận tăng trưởng âm so với cùng kỳ năm trước. Vẫn có ba nhóm tăng trưởng dương đáng chú ý: cá và thủy sản (HS 03) đạt 112,6 triệu SGD, tăng 13,3%; dụng cụ và thiết bị quang học, đo lường, y tế (HS 90) đạt 103,3 triệu SGD, tăng 29,8%; và đồ uống, rượu, giấm (HS 22) đạt 45,5 triệu SGD, tăng 23,9%. Những điểm sáng này gợi ý dư địa cho các nhóm hàng có giá trị gia tăng, tiêu chuẩn cao và có “câu chuyện thương hiệu”.
Bước sang 2026, dự báo kinh tế Singapore có thể tăng trưởng chậm hơn so với 2025, kéo theo tác động trực tiếp đến các đối tác thương mại lớn, trong đó có Việt Nam. Với đặc thù là thị trường trung chuyển, quy mô tiêu thụ nội địa của Singapore tương đối bão hòa, tăng trưởng thương mại phần lớn dựa vào mạng lưới doanh nghiệp Singapore tái xuất sang nước thứ ba.
Điều này đặt ra yêu cầu mới cho doanh nghiệp Việt: không chỉ bán hàng vào thị trường 6 triệu dân, mà phải “đi cùng” hệ sinh thái trung chuyển để bước vào chuỗi phân phối khu vực.



