Table of Contents
Câu hỏi trong Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, trang 121 – 122
1. Văn bản“Nơi dựa” (Nguyễn Đình Thi)
a. Văn bản là một bài thơ văn xuôi của Nguyễn Đình Thi. Bố cục của văn bản chia làm hai đoạn đối xứng nhau:
Mỗi đoạn có 5 câu. Câu mở đầu và câu kết có cấu trúc tương tự.
Các nhân vật làm nổi bật tính tương phản: Đoạn 1 là một người mẹ và đứa con nhỏ, đoạn 2 là một người chiến sĩ và bà cụ.
b. Thông thường, những người yếu đuối tìm “nơi dựa” ở người vững mạnh. Ở đây thì ngược lại: Người mẹ trẻ khỏe “dựa” vào đứa con mới châp chững tập đi; anh chiến sĩ dạn dày chiến trận “dựa” vào cụ già bước từng bước run rẩy trên đường.
Những hình tượng trong hai đoạn của bài thơ gợi lên nhiều suy nghĩ về “nơi dựa” trong cuộc sống. “Nơi dựa” là chỗ dựa tinh thần, là nơi con người tìm thấy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống. Chính tình yêu thương, niềm hi vọng ở tương lai, lòng biết ơn quá khứ, ... là những tình cảm làm nên phẩm giá con người, giúp con người vượt qua thử thách, trở ngại trong cuộc sống.
2. Văn bản“Thời gian” (Văn Cao)
a. Bài thơ có thể chia làm hai đoạn:
Đoạn một: câu 1, 2, 3, 4 nói lên sức tàn phá của thời gian. Thời gian cứ từ từ trôi “qua kẽ tay” và âm thầm “làm khô những chiếc lá”. Thời gian làm phai tàn sự sống, kỉ niệm cũng bị lãng quên (hòn sỏi rơi vào cái giếng bị bùn cát lấp chẳng có tiếng vang gì). Cuộc đời và kỉ niệm đều bị thời gian xóa nhòa.
Đoạn hai: câu 5,6,7 nói lên những điều có sức sống mãnh liệt, tồn tại với thời gian.
- Thi ca (“những câu thơ”), và âm nhạc (“những bài hát”), hiểu rộng ra là nghệ thuật - những tác phẩm nghệ thuật đích thực vẫn tươi xanh mãi mãi, bất chấp thời gian: “Văn học nằm ngoài qui luạt của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sê-đrin).
- “Đôi mắt em” là đôi mắt người yêu, những kỉ niệm tình yêu; “hai giếng nước” không cạn, gợi những điều trong mát ngọt lành.
b. Ý nghĩa của bài thơ: Thời gian có thể xoá nhoà tất cả, thời gian tàn phá cuộc đời con người. Duy chỉ có văn học nghệ thuật và tình yêu là có sức sống lâu dài.
3. Văn bản“Mình và ta” (Chế Lan Viên)
a. Hai câu đầu là quan niệm của nhà thơ về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta):
“Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình.
Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!”
Chỗ sâu thẳm tâm hồn người đọc cũng chĩnh là chỗ sâu thẳm tâm hồn mà người viết khai thác, diễn tả. Người viết không chỉ nói những điều riêng tư của mình mà còn nói lên tiếng lòng của muôn triệu tấm lòng, nói lên những vấn đề chung của cộng đồng, dân tộc.
Hai câu sau là quan niệm của Chế Lan Viên về từ văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc:
“Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành”.
Trong quá trình sáng tạo, viết không phải là nói hết, cạn lời, cạn ý. Người viết cần dành cho người đọc cơ hội tái tạo, tưởng tượng thêm từ văn bản văn học: từ “tro” nhen lên thành “lửa”, từ “viên đá” dựng nên “thành”. Đó chính sự đồng sáng tạo của người đọc với nhà văn trong quá trình tiếp nhận văn bản văn học.
Nhà thơ Chế Lan Viên dùng thơ để nói lên quan niệm của mình về văn học nghệ thuật.
Giáo viên biên soạn: Cao Thị Nhân An
Đơn vị: Trường TH-THCS-THPT Lê Thánh Tông