Việt Nam có mức phát thải khí nhà kính (KNK) tăng nhanh nhất trong Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng. Theo kịch bản phát thải, đến năm 2050, tổng lượng phát thải KNK của Việt Nam có thể đạt mức 1.495,4 triệu tấn CO2 tương đương trong đó, ngành năng lượng chiếm tới 81% tổng lượng phát thải KNK.
Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để giảm phát thải KNK và nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, như cam kết đưa Phát thải ròng về “0” (Net Zero) vào năm 2050 tại COP26. Theo đó, tăng mức giảm phát thải KNK từ 9% lên 15,8% với nguồn lực của quốc gia, và 27% lên 43,5% với sự hỗ trợ quốc tế.
Để đạt được những mục tiêu này, một trong những hành động chủ yếu của Việt Nam là tăng cường chuyển đổi sang Năng lượng tái tạo (NLTT) trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số 500/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch điện VIII; trong đó phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 30,9-39,2% vào năm 2030, định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5-71,5%.
Đây được xem là chìa khóa để Việt Nam thực hiện chuyển dịch năng lượng và trung hòa carbon.
Tính đến cuối năm 2023, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống của Việt Nam đạt xấp xỉ 78.000 MW, trong đó công suất từ các nguồn năng lượng tái tạo là 21.000 MW chiếm tỷ trọng trên 26%, đưa Việt Nam đứng đầu khu vực ASEAN về quy mô hệ thống điện.
Thế nhưng, để đạt được mục tiêu Net Zero, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp cần đạt đến 71.5% vào năm 2050 (theo Quy hoạch điện VIII). Vì vậy, chuyển dịch năng lượng là điều kiện tiên quyết đối với Việt Nam để đạt được mục tiêu Net Zero.
Theo chuyên gia, lượng năng lượng tái tạo sẽ ngày càng được bổ sung nhiều hơn vào hệ thống điện của Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam đã cam kết đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Ước tính, Việt Nam sẽ cần khoảng 135 tỷ Đô la Mỹ vào năm 2030 và lên đến 523 tỷ Đô la Mỹ vào năm 2050 cho các tiến trình chuyển đổi năng lượng, theo Quy hoạch điện VIII.
Những thách thức phải vượt qua
Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức để vừa phát triển bền vững năng lượng tái tạo vừa đảm bảo an ninh năng lượng trong bối cảnh thực hiện cam kết quốc tế về quá trình chuyển dịch năng lượng hướng tới mục tiêu nền kinh tế quốc gia không phát thải ròng carbon vào năm 2050 (NLTT chiếm tỷ trọng khoảng 30% năm 2030 và tăng lên 60% năm 2050).
Theo đánh giá của Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, việc phát triển điện năng lượng tái tạo thời gian qua cũng đã bộc lộ một số bất cập trong công tác quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và khai thác các dự án điện gió điện mặt trời; phát triển chưa đồng bộ với hệ thống truyền tải dẫn đến nghẽn mạch phải giảm phát.
Ngoài ra, tiến độ triển khai nhiều công trình lưới điện đã có trong quy hoạch phát triển điện lực đã được phê duyệt còn chậm dẫn đến quá tải cục bộ tại một số khu vực.
Thách thức lớn nhất đối với phát triển năng lượng tái tạo nằm ở vốn đầu tư và khả năng thu xếp vốn của chủ đầu tư, trong đó, rào cản tài chính là yếu tố cản trở việc thực hiện một dự án kinh tế do thiếu tiếp cận với nguồn tài chính phù hợp.
Thách thức về việc sử dụng đất, vốn đầu tư, đấu nối, giải tỏa công suất, cơ chế chính sách là những vấn đề đáng quan tâm trong quá trình định hướng, xây dựng chính sách phát triển nguồn điện tái tạo. Cùng với đó là việc chưa có những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió.
Hiện vẫn chưa có những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió là một thách thức cần phải vượt qua nếu muốn chuyển dịch cơ cấu nguồn điện tại Việt Nam.
Năng lực và trình độ công nghệ trong nước còn hạn chế, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế thiết bị. Tỉ lệ nội địa hóa công nghệ ngành năng lượng thấp, thiếu cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy nội địa hóa công nghệ.
Năng lượng tái tạo đóng vai trò quan trọng và là nhu cầu tất yếu cho phát triển bền vững. Nhiều năm qua, sau thời điểm bùng nổ của điện mặt trời và điện gió, các dự án điện sạch gần như đã “đình trệ”.
Ông Nguyễn Việt Dũng, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Halcom Việt Nam cho hay giá điện các loại hình năng lượng tái tạo đã có mức giảm đáng kể.
Theo Quyết định số 21/2023, với điện gió trên đất liền mức giá đã giảm 18%, chỉ còn 1.587 đồng/kWh; điện gió trên biển giá giảm 19,7%, chỉ còn 1.815 đồng/kWh; điện mặt trời mặt đất giảm 28%, còn 1.184 đồng/kWh…
Khi mà các chính sách cho phát triển năng lượng tái tạo chưa thực sự rõ ràng, như trong đàm phán hợp đồng mua bán điện, giá bán điện; chưa có các văn bản, quy định hướng dẫn cụ thể bước triển khai các dự án năng lượng tái tạo sau Quy hoạch Điện VIII được phê duyệt.
Cùng đó, các chính sách ưu đãi hiện chưa hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này ảnh hưởng tới các nhà đầu tư khi chi phí đầu tư vẫn còn lớn.
Các vùng được đánh giá tiềm năng cao phần lớn nằm ở những khu vực chưa phát triển về hạ tầng khiến nhà đầu tư phải mất thêm chi phí để đầu tư vào hạ tầng (đường dự án, truyền tải)…
Nguồn tài chính doanh nghiệp hạn chế, lãi suất cao, quy trình cấp vốn lâu với khoảng 30 loại giấy tờ; đặc biệt thời gian áp dụng giá ưu đãi ngắn gây khó khăn cho quá trình đàm phán vốn vay các dự án năng lượng tái tạo có công suất lớn, thời gian xây dựng dài, ông Dũng chia sẻ thêm.
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, đại diện Hiệp hội Năng Lượng Việt Nam, có 3 thách thức lớn ảnh hưởng tới chuyển dịch năng lượng, gồm yếu tố giá bán điện trong tương lai có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu phụ tải, tiết kiệm điện, hệ số đàn hồi.
Bên cạnh đó, quản lý nhu cầu nguồn năng lượng phân tán. Khi các nguồn điện nhỏ, tự sản tự tiêu không bị ràng buộc hạn chế, được phát triển nhanh và nhiều trong tương lai, điều này có thể ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu phụ tải và biểu đồ tiêu thụ.
Khí và hydrogen xanh là 2 nguồn quan trọng nhất vào năm 2050. Ở giai đoạn chuyển dịch năng lượng, điều quan trọng đối với Việt Nam là phải có Chiến lược hydrogen Xanh.
Định hướng xây dựng Chiến lược hydrogen Xanh bao gồm xác định rõ vai trò của khí hydro trong ngành năng lượng Việt Nam, đảm bảo thực hiện hài hòa giữa phát triển năng lượng tái tạo và tiêu thụ khí hydro.
Với đặc tính khó dự báo và thay đổi nhanh chóng theo thời tiết của nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) điện gió, điện mặt trời, cơ cấu nguồn điện này đã và đang tạo nhiều áp lực đối với những đơn vị vận hành hệ thống điện nhằm đảm bảo hệ thống điện hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả.
Các giải pháp và hành lang pháp lý
Thời gian qua, các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Chính phủ đã tạo bước phát triển vượt bậc của năng lượng tái tạo. Từ mức công suất không đáng kể vào năm 2018, đến nay, tổng công suất các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo đã chiếm khoảng 30% tổng công suất của hệ thống điện quốc gia.
Song theo ông Nguyễn Anh Tuấn, khung pháp lý đã cho phép các thành phần kinh tế được đầu tư lưới điện truyền tải, tuy nhiên chưa có các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện nên vẫn thiếu điều kiện để triển khai.
Chưa có Luật Năng lượng tái tạo để cụ thể hóa các cơ chế chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và ổn định trong thời gian dài để đảm bảo cho việc chuyển dịch năng lượng bền vững và hợp lý.
Ông Nguyễn Việt Dũng, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Halcom Việt Nam rằng các cơ quan chức năng cần có các chính sách ưu đãi, về giá, thuế suất và hỗ trợ nhà đầu tư trong viêc vay vốn thực hiện dự án năng lượng tái tạo… Đồng thời sớm hoàn thiện khung pháp lý gồm các văn bản hướng dẫn thực hiện Quy hoạch điện VIII, cơ chế ưu đãi, hợp đồng mua bán điện trực tiếp… cho các dự án để nhà đầu tư có cơ sở tính toán, chuẩn bị đầu tư.
Cùng với đó là việc nên có các cơ chế về giá cho các loại hình năng lượng tái tạo, nâng cao năng lực và trình độ công nghệ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ.
Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện; thực hiện đầu tư phát triển điện lực cân đối giữa các vùng, miền trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi vùng, miền; hạn chế tối đa việc xây dựng mới các đường dây truyền tải điện liên miền.
Việc tăng cường việc liên kết lưới điện với các nước trong khu vực cũng cần phải được thực hiện nhằm hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo trong nước có hiệu quả.
Chuyên gia năng lượng Nguyễn Văn Vy cho rằng thị trường năng lượng tái tạo cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý cần đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án.
Ông Nguyễn Thành Trung - Quản lý dự án 100% RE MAP, WWF-Việt Nam cho biết:“Theo báo cáo lộ trình về chuyển dịch năng lượng, sắp tới cần ưu tiên tập trung vào thực hiện 1 số giải pháp. Thứ nhất là nâng cấp hệ thống truyền tải điện để huy động tối đa được năng lượng tái tạo vào trong hệ thống, thứ 2 là tập trung nghiên cứu và phát triển các công nghệ lưu trữ năng lượng, thứ 3 là ban hành sớm các chính sách, các quy định để phát triển giao thông điện và điện gió ngoài khơi.”.