Chờ...

Tín chỉ carbon là gì và xuất khẩu ra sao?

VOH - Tín chỉ carbon hiện đang là tài nguyên hấp dẫn trong bối cảnh cả thế giới đi theo xu hướng phát triển KT bền vững. DN VN cần nhanh chóng nhập cuộc để không bị thị trường quốc tế bỏ lại phía sau.
Tín chỉ carbon là gì và xuất khẩu ra sao? 1
Năm 2023, sức nóng về tín chỉ carbon đang tăng dần với doanh nghiệp xuất khẩu.

Lộ trình thị trường carbon ở Việt Nam sẽ thí điểm từ năm 2025, vận hành chính thức từ năm 2028. Việc sớm thực hiện thị trường này đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp cũng như góp phần quan trọng trong phát triển và bảo vệ rừng.

Việc trao đổi tín chỉ carbon tự nguyện từ Việt Nam ra thế giới đã được các doanh nghiệp thực hiện từ giữa những năm 2000 khi triển khai các chương trình, dự án "theo cơ chế phát triển sạch" (CDM).

Đến nay, nước ta có hơn 300 chương trình, dự án đăng ký thực hiện theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon... trong đó có khoảng 150 chương trình, dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ và trao đổi trên thị trường carbon thế giới.

Hiện nay trên thế giới có 58 quốc gia phát triển thị trường carbon, 27 quốc gia áp dụng thuế carbon và một số quốc gia áp dụng cả hai. 

Việt Nam là một trong bốn nước có dự án CDM đăng ký nhiều nhất, sau Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và đứng thứ 9 trên tổng số 80 quốc gia có dự án CDM được cấp tín chỉ.

Thị trường carbon được coi là công cụ chính để giảm phát thải khí nhà kính và đang phát triển nhanh chóng về thị phần giao dịch cũng như các tổ chức tham gia.

Tín chỉ carbon là gì?

Tín chỉ carbon là thuật ngữ chung cho tín chỉ có thể kinh doanh hoặc giấy phép đại diện cho 1 tấn carbon dioxide (CO2) hoặc khối lượng của một khí nhà kính khác tương đương với 1 tấn CO2 (tCO2e). Việc mua bán sự phát thải khí CO2 hay mua bán carbon trên thị trường được thực hiện thông qua tín chỉ.

Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một lượng khí CO2 hoặc một lượng khí nhà kính khác quy đổi sang CO2 tương đương.

Một tín chỉ tương đương với 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn CO2 quy đổi tương đương. Trong khi đó, theo lộ trình thị trường carbon trong nước sẽ thí điểm từ năm 2025, vận hành chính thức từ năm 2028.

Tín chỉ xanh thường đề cập đến các giấy chứng nhận cho các hoạt động thân thiện với môi trường, bao gồm không chỉ việc giảm lượng khí thải mà còn các hoạt động như tái chế, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, bảo vệ động vật hoặc đa dạng sinh học.

Thị trường carbon là gì?

Thị trường carbon được bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết.

Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Do carbon (CO2) là khí nhà kính quy đổi tương đương của mọi khí nhà kính nên các giao dịch được gọi chung là mua bán, trao đổi carbon, hình thành nên thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon.

Chẳng hạn như công ty A có giới hạn 10 tấn khí thải CO2 nhưng chỉ phát thải 7 tấn, nên sẽ thừa 3 tín chỉ, trong khi công ty B cũng có giới hạn phát thải 10 tấn khí thải CO2 nhưng thải ra tận 13 tấn. Như vậy công ty B có thể mua 3 tín chỉ bổ sung từ công ty A để tuân thủ đúng các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường.

Có hai loại thị trường carbon chính

Thị trường carbon bắt buộc (mandatory carbon market): thị trường mà việc mua bán carbon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).

Thị trường carbon tự nguyện (voluntary carbon market): dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện để đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG) để giảm dấu chân carbon.

Thị trường carbon tự nguyện tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và tổ chức tham gia tự chủ trong việc giảm lượng khí thải của họ. Thay vì bị buộc phải tuân thủ các quy định, các đơn vị có thể tự nguyện mua tín chỉ carbon để bù đắp lượng khí thải của họ.

Tiền thu được từ việc bán tín chỉ carbon có thể được sử dụng để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới và sạch hơn. Điều này khuyến khích sự đổi mới và thúc đẩy sự tiến bộ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải.

Thị trường carbon tự nguyện có thể tạo ra cơ hội cho các dự án giảm thiểu khí thải ở các quốc gia đang phát triển hoặc trong các cộng đồng có thu nhập thấp. Những dự án này không chỉ giúp giảm lượng khí thải mà còn tạo ra cơ hội việc làm và hỗ trợ cho những người dân địa phương.

Việc hỗ trợ các dự án giảm thiểu khí thải thông qua thị trường carbon tự nguyện đồng thời còn giúp bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Giảm lượng khí thải giúp giảm căng thẳng lên các hệ sinh thái và giữ cho các loài động vật và thực vật có môi trường sống tự nhiên.

Thị trường carbon tự nguyện tạo ra một cộng đồng các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu. Sự hợp tác trong thị trường này không chỉ giúp giảm lượng khí thải mà còn tạo ra cơ hội cho việc học hỏi và trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong cộng đồng này.

Các thị trường carbon lớn trên thế giới

Thị trường thương mại phát thải quốc tế đầu tiên là của Liên minh châu Âu, vận hành từ năm 2005. Đây là công cụ chính sách quan trọng bậc nhất của Liên minh châu Âu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, thực thi cam kết trong Nghị định thư Kyoto trước đây và sau này là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thị trường này chiếm khoảng 45% tổng lượng phát thải toàn châu Âu và khoảng 3/4 thị trường phát thải carbon toàn cầu.

Trung Quốc bắt đầu đề cập xây dựng thị trường carbon trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2015 và sau đó đã tiến hành thí điểm diện rộng tại các khu vực, thành phố với các mức độ kinh tế đa dạng khác nhau. Ngày 16/7/2021, thị trường giao dịch trao đổi carbon Trung Quốc đã chính thức vận hành nhằm đạt mục tiêu trung hòa carbon năm 2060.

Cơ chế vận hành của thị trường carbon và phát hành chứng chỉ carbon

Xác định dự án giảm khí thải: Một dự án giảm khí thải cần được xác định. Đây có thể là một dự án về năng lượng tái tạo, quản lý rừng, quản lý chất thải, hay bất kỳ hoạt động nào khác có thể giảm lượng khí thải hoặc ngăn chặn sự phát thải của chúng.

Đo lường và ghi nhận khí thải: Các dự án cần phải đo lường và ghi nhận lượng khí thải trước và sau khi triển khai các biện pháp giảm thiểu. Sự chênh lệch giữa các lần đo này là lượng khí thải giảm được và là cơ sở để xác định số lượng chứng chỉ carbon được phát hành.

Xác minh bởi bên thứ ba: Thông thường, kết quả đo lường và giảm lượng khí thải cần được xác minh bởi một bên thứ ba độc lập. Đây là một tổ chức hay cá nhân có chuyên môn cao về đo lường khí thải và có thể xác minh rằng các con số được báo cáo là chính xác và đáng tin cậy.

Phát hành chứng chỉ carbon: Sau khi xác minh, các chứng chỉ carbon được phát hành. Mỗi chứng chỉ này đại diện cho một lượng cụ thể của khí thải đã được giảm bớt. Chúng có thể được bán trên thị trường carbon.

Giao dịch trên thị trường carbon: Các doanh nghiệp hoặc tổ chức có nhu cầu mua chứng chỉ carbon để bù đắp lượng khí thải của họ có thể mua chúng từ các dự án đã được chứng minh và xác nhận. Giao dịch này có thể xảy ra trên các sàn giao dịch carbon hoặc thông qua các thỏa thuận song phương.

Theo dõi và báo cáo: Các dự án cần liên tục theo dõi và báo cáo về việc duy trì các biện pháp giảm khí thải và lượng khí thải thực tế để đảm bảo tính minh bạch và nhất quán của thị trường carbon.

Điều này đảm bảo rằng việc giảm lượng khí thải không chỉ là một cam kết trên giấy, mà còn được đo lường, xác minh và theo dõi chặt chẽ để đảm bảo rằng các nỗ lực giảm thiểu khí thải là hiệu quả và đáng tin cậy.

Tín chỉ carbon là gì và xuất khẩu ra sao? 2
Ảnh minh họa Internet

Vận hành thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam

Theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành về việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng hội thảo về đề án “Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam”. Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm thị trường carbon vào năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028.

Nước ta sẽ tiến hành tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon trong năm 2025. Nội dung thực hiện bao gồm việc xây dựng quy chế vận hành, các cơ chế mua bán, trao đổi tín chỉ carbon trong nước và quốc tế để phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên.

Đến năm 2028, Việt Nam sẽ chính thức tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon. Quy định các hoạt động kết nối, mua bán và trao đổi tín chỉ carbon giữa các đơn vị, doanh nghiệp trong nước và với thị trường nước ngoài, giữa các nước trên thế giới.

Để vận hành thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam, chính phủ và các cơ quan liên quan có thể thiết lập hệ thống quy định và tiêu chuẩn rõ ràng. Việc khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào các dự án giảm thiểu khí thải và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo có thể được thực hiện thông qua các chính sách hỗ trợ, ưu đãi thuế, và thậm chí là hợp tác công-điều tư với các đối tác quốc tế.

Tất cả những nỗ lực này cùng nhau có thể giúp Việt Nam thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế và đồng thời tạo ra một môi trường kinh doanh bền vững, hướng tới một tương lai thân thiện với môi trường.

Quy đổi tín chỉ xanh (như I-REC) và tín chỉ carbon (CER)

Nguồn gốc năng lượng: Tín chỉ xanh (I-REC) thường được cấp cho nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, hoặc các nguồn năng lượng tái tạo khác. Đối lập với đó, tín chỉ carbon (CER) thường được cấp cho các dự án giảm lượng khí thải, không nhất thiết phải liên quan đến năng lượng tái tạo.

Phạm vi và đơn vị đo lường: Tín chỉ xanh thường đo lường theo lượng năng lượng tái tạo sản xuất hoặc tiêu thụ (ví dụ: kilowatt-giờ hoặc megawatt-giờ), trong khi tín chỉ carbon đo lường lượng khí thải giảm được (ví dụ: tấn CO2).

Quy trình xác minh và xác nhận: Cả hai loại tín chỉ đều đòi hỏi quá trình xác minh và xác nhận độc lập. Tuy nhiên, quy trình này có thể thay đổi dựa trên tiêu chuẩn và quy định của từng loại tín chỉ.

Quy đổi giữa tín chỉ xanh và tín chỉ carbon: Quy đổi giữa tín chỉ xanh và tín chỉ carbon có thể diễn ra dựa trên tỷ lệ cụ thể giữa lượng năng lượng tái tạo và lượng khí thải giảm được. Ví dụ, một dự án năng lượng tái tạo có thể được quy đổi thành một số lượng tín chỉ carbon dựa trên lượng khí thải mà nó giảm được so với nguồn năng lượng không tái tạo tương đương.

Giá trị và thị trường: Giá trị của tín chỉ xanh và tín chỉ carbon thường phụ thuộc vào cung và cầu trên thị trường. Khi có nhiều tổ chức quốc tế hoặc doanh nghiệp tìm kiếm tín chỉ xanh để bù đắp lượng khí thải của họ, giá trị của tín chỉ xanh có thể tăng lên. Tuy nhiên, điều này cũng có thể phụ thuộc vào các quy định và chính sách của từng quốc gia và tổ chức quốc tế.

Đối tượng tham gia thị trường carbon

Căn cứ vào Khoản 1, Điều 5 và Điều 16, Nghị định 06/2022/NĐ-CP đối tượng tham gia thị trường carbon được quy định như sau:

Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính do nhà nước và chính phủ ban hành.

Các đơn vị tham gia vào thị trường cần thực hiện theo cơ chế trao đổi, mua bán tín chỉ carbon trong nước và quốc tế, phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà trong đó Việt Nam là nước thành viên.

Các cá nhân và tổ chức có liên quan đến các hoạt động đầu tư, kinh doanh hạn ngạch phát thải khí nhà kính hay tín chỉ carbon trên thị trường.

Thị trường mua bán tín chỉ carbon ở nước ta đang dần nóng lên, đặc biệt khi Thủ tướng Chính phủ đưa ra cam kết đầy tham vọng rằng vào năm 2050, nước ta sẽ tiến tới đạt mức phát thải ròng bằng 0.

Với những tiềm năng đầy hứa hẹn của thị trường mua bán tín chỉ carbon, để vận hành được, nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn như: Các công đoạn kỹ thuật phức tạp hơn như theo dõi, giám sát, báo cáo tiến trình mua bán; cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, quy định rõ ràng những ngành nghề nào phải tham gia, có sự chuẩn bị tốt về hạ tầng kỹ thuật và sự kết nối với các doanh nghiệp.

Hệ thống mua bán tín chỉ carbon sẽ là giải pháp hữu hiệu để tạo động lực cho doanh nghiệp giảm thiểu khả năng phát thải, tìm cách cắt giảm lượng khí thải hoặc chuyển sang sử dụng các công nghệ xanh, sạch, ít thải khí carbon mà hiệu quả hơn so với các công nghệ sản xuất truyền thống.

Lợi thế khi gia nhập thị trường carbon

Việt Nam có nguồn lợi lớn về tín chỉ carbon. Diện tích rừng phong phú và đa dạng có thể quy đổi sang tín chỉ carbon. Nếu biết khai thác hiệu quả, sẽ có nguồn kinh phí lớn để nâng cao thu nhập cho người trồng rừng, đồng thời, góp phần không nhỏ bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.

Ngân hàng thế giới vừa tài trợ Việt Nam số tiền hàng chục triệu USD để kiểm kê tín chỉ carbon. Trong đó, Ngân hàng Thế giới chỉ giữ 5% lượng tín chỉ, còn lại sẽ dành cho Việt Nam. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất điện gió, điện mặt trời có thể tạo ra những tín chỉ carbon có thể trao đổi và mua bán.

Việc tham gia thị trường carbon là trách nhiệm cũng là cơ hội cho các tổ chức, doanh nghiệp. Hiện các tiêu chuẩn mới áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường này đang đến rất gần. Vì vậy, các doanh nghiệp nên tiếp cận theo xu hướng xanh, thay đổi công nghệ sản xuất. Đồng thời, cũng cần nghiên cứu tính trước tín chỉ carbon cho doanh nghiệp mình.

Thị trường tín chỉ carbon và thị trường tài chính xanh có quan mật thiết với thị trường chứng khoán, đặc biệt là các doanh nghiệp đã và đang niêm yết. Việc thay đổi công nghệ theo hướng giảm phát thải khí nhà kính, tạo ra quyền phát thải sẽ giúp doanh nghiệp thu hút nguồn tài chính dễ dàng với chi phí rẻ. Đồng thời, góp phần nâng tầm giá trị trên thị trường thế giới.

Trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt cơ hội và thu được nhiều lợi ích trong thực hiện các cơ chế khi nhận được hơn 15.000 tỉ đồng thông qua bán tín chỉ carbon từ các dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) và gần 35 triệu USD hỗ trợ cho các dự án cơ chế tín chỉ chung (JCM) để áp dụng các công nghệ, sản phẩm, hệ thống, dịch vụ carbon thấp tiên tiến của Nhật Bản.

Các doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn nào

Nắm vững quy định và tiêu chuẩn của thị trường tín chỉ carbon. Điều này bao gồm cách đo lường lượng khí thải, quy trình xác minh, và các tiêu chí đánh giá dự án.

Tìm các chuyên gia hoặc tổ chức có kinh nghiệm trong lĩnh vực giảm lượng khí thải và tín chỉ carbon để được tư vấn. Họ có thể giúp doanh nghiệp hiểu rõ về các yêu cầu và quy trình cần thiết.

Doanh nghiệp cần triển khai các dự án giảm lượng khí thải hoặc nâng cao năng suất sử dụng năng lượng tái tạo. Đây cần được thực hiện một cách minh bạch và đúng quy định.

Để tăng uy tín, việc sử dụng các tổ chức xác minh và chứng minh chất lượng từ bên thứ ba (third-party verification) là quan trọng. Điều này giúp đảm bảo rằng các con số về giảm lượng khí thải là chính xác và đáng tin cậy.

Doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống để theo dõi và báo cáo về việc duy trì các biện pháp giảm khí thải và lượng khí thải thực tế. Điều này đảm bảo rằng dự án của họ duy trì được chất lượng theo thời gian.

Các quy trình tính toán và xác nhận

Doanh nghiệp cần thu thập dữ liệu về lượng khí thải trước khi triển khai dự án và sau khi dự án hoàn thành.

Sử dụng phương pháp và công cụ tính toán chuẩn để xác định lượng khí thải giảm được do dự án. Điều này thường liên quan đến sử dụng các công thức toán học hoặc các mô hình tính toán.

Gửi dữ liệu và kết quả tính toán đến một tổ chức xác minh chất lượng từ bên thứ ba. Họ sẽ kiểm tra và xác nhận xem lượng khí thải giảm được có đáp ứng các tiêu chuẩn không.

Sau khi xác minh, doanh nghiệp sẽ nhận được chứng chỉ carbon tương ứng với lượng khí thải giảm được. Chứng chỉ này có thể được sử dụng để bán trên thị trường quốc tế.