Phát triển thị trường vốn, trái phiếu, bất động sản lành mạnh, an toàn, bền vững, hướng tới chuẩn mự

(VOH) - Diễn đàn Kinh tế VN lần thứ tư chủ đề “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế sâu rộng trong tình hình mới” khai mạc sáng 5/6 tại TPHCM.

Tại hội thảo, các chuyên gia cho rằng, cần thiết phải có các giải pháp nhằm phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu, bất động sản lành mạnh, từ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý gồm: Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn... đến triển khai các giải pháp điều hành và quản lý, giám sát thị trường.

Cần có giải pháp phát triển thị trường vốn bền vững

Trong giai đoạn 2016-2021, thị trường vốn đã có bước phát triển nhanh, theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, phát triển cân bằng giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ; góp phần quan trọng vào tái cơ cấu nợ công và đầu tư công, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Các cấu phần thị trường bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán phái sinh đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, là cơ sở để thị trường tiếp tục phát triển trong giai đoạn từ nay đến năm 2025.

Theo đó, quy mô của thị trường vốn tăng trưởng bình quân 28,5%/năm, giai đoạn 2016-2021. Đến cuối Quý 1 năm 2022, quy mô thị trường vốn đạt 134,570 GDP năm 2021, gấp 3,5 lần quy mô năm 2015; trong đó quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 93,8% GDP; quy mô thị trường trái phiếu đạt 40,7% GDP (trong đó trái phiếu Chính phủ là 22,7%GDP và trái phiếu doanh nghiệp là 16,4%GDP).

“Từ đầu tháng 4/2022, thị trường có nhiều đợt điều chỉnh, trong đó nhóm cổ phiếu của doanh nghiệp bất động sản có sự điều chỉnh nhiều nhất; việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp bất động sản tăng trưởng nhanh về quy mô nhưng cũng phát sinh nhiều rủi ro, bất cập. Vấn đề này cần được nhìn nhận, đánh giá sâu hơn để có giải pháp phát triển thị trường bền vững trong thời gian tới” - Thứ trưởng Bộ Tài chính – Nguyễn Đức Chi nhấn mạnh.

Phát triển thị trường vốn, trái phiếu, bất động sản lành mạnh, an toàn, bền vững, hướng tới chuẩn mự 1
Hội thảo thu hút 1.000 đại biểu là các chuyên gia, doanh nghiệp, lãnh đạo các bộ ngành địa phương

Các vấn đề phát triển thị trường vốn an toàn, bền vững, hướng tới chuẩn mực quốc tế, gồm các nội dung về: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu minh bạch và bền vững, những vấn đề về nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, giải pháp và yêu cầu nhằm khơi thông dòng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ông Don Lam - Tổng giám đốc VinaCapital kỳ vọng, nếu mở rộng thị trường này thì thời gian tới tăng ít nhất 10 tỷ đô la Mỹ.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường bất động sản có một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua việc thu hút vốn đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra nhu cầu về lao động và thúc đẩy các ngành khác phát triển như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng và nhà. Kết nối với thị trường đất đai và các dịch vụ môi giới, pháp lý và định giá. Đóng góp của ngành xây dựng và bất động sản trong GDP các năm gần đây ngày càng tăng và chiếm khoảng 11%, trong đó, đóng góp của ngành bất động sản trực tiếp và gián tiếp thông qua các lĩnh vực khác khoảng 4,5%.

Trong quý I/2022, lượng giao dịch căn hộ chung cư, nhà ở riêng lẻ: 20.325 giao dịch thành công, chỉ bằng khoảng 45,5% so với Quý 4/2021 và bằng khoảng 80% so với cùng kỳ năm 2021. Việc tăng giá trên thị trường bất động sản được cho là do yếu tố cung cầu, nguồn cung của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, dẫn đến giá nhà tăng.

“Thời điểm này không nên quy định lại thời hạn nhà chung cư có thời hạn 50 năm, 70 năm vì sẽ gây hoang mang tâm lý cho người mua nhà, gây bất ổn thị trường” - ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội bất động sản TPHCM đề nghị.

Thị trường trái phiếu, cần minh bạch thông tin thị trường, có tổ chức uy tín đánh giá định mức tín nhiệm

Đối với thị trường trái phiếu, các chuyên gia đề xuất, cần cho phép thêm nhiều sản phẩm phái sinh để bảo vệ thị trường. Minh bạch thông tin thị trường, cho phép các nhà đầu tư tham gia hiệu quả hơn. Muốn vậy, cần có đơn vị đánh giá tín nhiệm tốt, chuẩn, yếu tố bền vững cần có sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Việt Nam cần chi thêm 600 tỷ đô la Mỹ để xây dựng thị trường trái phiếu. Hiện tại mới chỉ đầu tư vào thị trường này 100 tỷ đô la Mỹ, cần tạo sự hài hòa phát triển thị trường.

Ông Nguyễn Hoàng Dương,  Vụ phó Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính cho biết thêm, Việt Nam thống nhất phát hành trái phiếu theo hai hình thức. Theo đó, phát hành ra công chúng thì độ tin cậy cao hơn, còn phát hành trái phiếu riêng lẻ thì doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh và minh bạch. Bộ Tài chính hiện đang sửa đổi phát hành trái phiếu riêng lẻ để minh bạch thông tin trên thị trường. Muốn vậy, theo ông Nguyễn Hoàng Dương, cần quy kết trách nhiệm rõ đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư, có tổ chức uy tín đánh giá định mức tín nhiệm; tiếp tục khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường vốn của Việt Nam để  thị trường ngày càng minh bạch, cạnh tranh lành mạnh.

Hội thảo cũng thảo luận chủ đề “Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng”. Theo ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, với đặc điểm nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao, những thách thức từ môi trường kinh tế quốc tế có thể có thể ảnh hưởng nhanh, mạnh và khó lường tới việc thực hiện chương trình phục hồi phát triển kinh tế cũng như các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm 2021-2025, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030.

Trong bối cảnh nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, hoạt động đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Việt Nam cũng đã có những chuyển biến tích cực. Về đổi mới công nghệ, năm 2020, đã cấp 4.319 bằng độc quyền sáng chế; 18.197 công bố quốc tế; tỷ lệ chi cho nghiên cứu triển khai khu vực ngoài nhà nước tăng lên đạt 40,07%, khu vực FDI 12,87%, khu vực Nhà nước 47,05%; Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đã huy động được gần 800 tỷ đồng từ doanh nghiệp cho các dự án đang thực hiện; Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt năm 2021 với mục tiêu số doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%-20%/năm.

Về chuyển đổi số, tính đến hết quý I năm 2022, đã có 22/22 bộ, ngành và 63/63 địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo; 55/63 địa phương đã ban hành nghị quyết/chỉ thị/văn bản của tỉnh ủy/thành ủy về chuyển đổi số; 59/63 địa phương và 19/22 bộ, ngành ban hành chương trình/kế hoạch/đề án về chuyển đổi số giai đoạn 5 năm. Các ngành Tài chính – Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Nông nghiệp, Năng lượng, Giao thông vận tải,… đã có những kết quả tích cực trong hoạt động chuyển đổi số và đưa các hoạt động thường xuyên của ngành lĩnh vực lên môi trường số.

Về đa dạng chuỗi cung ứng, Việt Nam đã tham gia và ký kết 17 hiệp định FTAs với các đối tác quan trọng hàng đầu trên thế giới, trong đó có nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP, RCEP, EVFTA. Một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang ngày càng tham gia có hiệu quả hơn vào các chuỗi cung ứng, sản xuất khu vực và toàn cầu và liên tục mở rộng thị trường đầu ra và đầu vào cho các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.

Tuy nhiên, đánh giá khách quan cho thấy, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả phân tích I-O cho thấy, nhóm ngành hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ có mức lan tỏa và độ nhậy thấp hơn mức bình quân chung khá nhiều. Bên cạnh đó, hiệu quả đổi mới công nghệ chỉ đóng góp khiêm tốn ở mức 28,44% trong TFP giai đoạn 2016-2018; tỷ lệ cấp bằng độc quyền sáng chế cho người Việt Nam rất thấp, năm cao nhất (2018) chỉ đạt 9,2% tổng số bằng được cấp tại Việt Nam.

Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với sự đồng bộ của các khâu: nguồn cung khoa học – công nghệ của khối đại học và viện nghiên cứu, khả năng áp dụng và năng lực đầu tư cho khoa học – công nghệ của khối doanh nghiệp và hệ thống quản lý, chính sách của Nhà nước. Chuyển đổi số trong các ngành sản xuất còn chậm; còn thiếu các cơ chế, chính chính sách hỗ trợ hiệu quả về chuyển đổi số, cơ chế đột phá đa dạng hóa chuỗi cung ứng để doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ, ưu đãi đối với sản phẩm tạo ra từ đổi mới công nghệ, chuyển đổi số chưa nhiều. Nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập cao nhưng lại chỉ tập trung vào một số ít thị trường dẫn đến thiếu bền vững.

Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho rằng, yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là phải xây dựng nền kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Đánh giá và đúc kết

Ông Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đánh giá và có một số đúc kết. Theo đó, Phiên thứ nhất: Phát triển chuỗi cung ứng lao động ổn định sau đại dịch Covid-19 đã tập trung trao đổi chuyên sâu về những vấn đề để hoàn thiện chính sách quản trị quốc gia về lao động sau đại dịch Covid-19.

Các đại biểu đã đưa ra kiến nghị như: Coi trọng phát triển thị trường lao động là nền tảng trụ cột của nền kinh tế;  Xây dựng và hoàn thiện thể chế điều chỉnh quan hệ cung cầu thị trường lao động, việc làm phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và thể chế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; có chính sách  khuyến khích phân bố lao động các ngành sản xuất theo quy luật thị trường và phù hợp với điều kiện thực tiễn, gắn với đồng bộ chính sách an sinh xã hội, đào tạo và đạo lại lao động; đảm bảo thống nhất hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước về lao động, việc làm. Tạo tính gắn kết chặt chẽ giữa thị trường lao động với thị trường sản xuất hàng hóa dịch vụ và thị trường đào tạo kỹ năng lao động;

Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu thống kê và chế độ báo cáo liên quan đến quản lý lao động, việc làm; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động gắn với cơ sở dữ liệu dân cư, an sinh xã hội…để giúp quá trình ra quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở hơn và tạo nền móng ứng dụng kỹ thuật số, dữ liệu lớn vào quản lý lao động.

Về phát triển thị trường vốn, thị trường bất động sản, bên cạnh những ý kiến đánh giá về vai trò quan trọng của thị trường vốn và thị trường bất động sản, ông Nguyễn Thành Phong cũng nhận định: Sự tăng trưởng nhanh của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và sự tăng trưởng nóng của thị trường bất động sản thời gian gần đây đã tiềm ẩn một số rủi ro như: Hiện tượng thao túng giá trên thị trường cổ phiếu; hiện tượng che dấu thông tin hay công bố thông tin sai lệch của doanh nghiệp phát hành trái phiếu hay những phát sinh rủi ro đến từ những hạn chế trong kiến thức pháp luật của một số nhà đầu tư cá nhân; sự thiếu minh bạch trong thông tin cũng khiến cho thị trường bất động sản bất ổn…

Nhiều ý kiến đề xuất các giải pháp để thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động và phân bổ vốn hiệu lực và hiệu quả cho nền kinh tế;  Các đề xuất cụ thể giúp khơi thông nguồn vốn bền vững cho thị trường bất động sản, giúp lĩnh vực bất động sản giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Cụ thể, đối với thị trường vốn, cần tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường vốn bao gồm cả thị trường ngân hàng, theo hướng tăng cường minh bạch, phát triển ổn định và bền vững tạo điều kiện đẩy mạnh xu hướng chuyển đổi số trên thị trường vốn và ngân hàng; nâng cao sức canh tranh và chất lượng của các định chế trung gian thị trường.

Đẩy mạnh vai trò nhà nước trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công để hướng đầu tư tư nhân vào các mục tiêu phát triển phục hồi kinh tế, phát triển xanh... đáp ứng các cam kết về giảm phát thải.

Tích cực triển khai các giải pháp để sớm nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong đó chú trọng các giải pháp đa dạng hóa sản phẩm thông qua thúc đẩy cổ phần hóa và tăng cường tính minh bạch trong quản lý, quản trị doanh nghiệp.

Tích cực triển khai lộ trình xây dựng và phát triển TP. Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế, hình thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế.

Thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tăng cường kênh dẫn vốn từ hệ thống ngân hàng thương mại trong đó  xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm cho ngân hàng, tạo môi trường thử nghiệm có điều kiện Sanbox; xây dựng Trung tâm Quản lý và khai thác dữ liệu tập trung của hệ thống Ngân hàng; và đầu tư phát triển nguồn nhân lực số phục vụ quá trình chuyển đổi số.

Đối với thị trường bất động sản, các chuyên gia cũng đề xuất cần đẩy mạnh các chính sách thúc đẩy tính minh bạch trên thị trường bất động sản. Loại bỏ những quy định mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến BĐS như đất đai, xây dựng, nhà ở, v.v…; tạo điều kiện và đảm bảo quyền tiếp cận nguồn lực đất đai công bằng giữa các nhà phát triển bất động sản; phát huy vai trò của “Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh”, nhất là ở các thành phố lớn, tập trung đông dân cư thành một công cụ điều tiết hữu hiệu theo cơ chế thị trường.

Tiếp đến, nguồn vốn cho thị trường BĐS cần đa dạng hóa thông qua các kênh: phát hành trái phiếu doanh nghiệp, hợp đồng góp vốn, cân nhắc mở rộng các hình thức mới như phát triển quỹ đầu tư bất động sản, quỹ tín thác, quỹ hưu trí, hoạt động M&A…

Có cơ chế chính sách điều tiết đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ bản về nhà ở của người dân như: chương trình phát triển nhà ở xã hội; hỗ trợ xây dựng nhà ở giá rẻ; có chính sách hỗ trợ người có thu nhập trung bình có thể tiếp cận cơ hội sở hữu nhà ở.  

Bốn là, đẩy mạnh quá trình hình thành và từng bước hiện đại hóa, số hóa hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đến từng thửa đất. Xây dựng hệ thống thông tin đăng ký đất đai đầy đủ, khoa học, đảm bảo công khai, minh bạch và dễ dàng tiếp cận đối với mọi đối tượng.

Phiên thứ ba, về đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Theo các chuyên gia, để nâng cao sức chống chịu và phục hồi của chuỗi cung ứng quốc gia, các ý kiến kiến nghị Chính phủ cần: Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Gia tăng tỷ lệ nguồn cung trong nước nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu, quan trọng; Nâng cao năng lực dự báo và chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với sự đứt gãy, gián đoạn của chuỗi cung ứng; Tái cân bằng lại chuỗi cung ứng để đề phòng rủi ro có thể xảy ra…