Phát triển các Khu công nghiệp theo hướng nào?
Tại hội thảo, GS TS Nguyễn Trọng Hoài - Trường Đại học Kinh tế TPHCM, Ủy viên Hội đồng Khoa học TPHCM cho rằng, khu công nghiệp sinh thái là định hướng phát triển trung và dài hạn của TPHCM.
Tất cả khu công nghiệp (KCN) - khu chế xuất (KCX) hiện hữu tại TPHCM phải có lộ trình từng bước tiệm cận với KCN sinh thái, vì đó là xu hướng tất yếu trên thế giới, phù hợp với bối cảnh siêu đô thị TPHCM.
Các KCN hiện hữu của TPHCM phải từng bước hoàn thiện hệ sinh thái tăng cường kết nối các bên hướng đến hiệu quả-đổi mới, sáng tạo-bền vững môi trường và xã hội. Trong quá trình chuyển đổi hậu công nghiệp, nếu TPHCM muốn tiếp tục duy trì KCN hiện hữu thì phải bổ sung hệ sinh thái kết nối các doanh nghiệp trong KCN, kết nối chuỗi cung ứng trong ngoài khu vực và quốc tế.
Kết nối doanh nghiệp với các chính sách ưu tiên và hỗ trợ của TPHCM về thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển đổi quá trình sản xuất theo hướng đổi mới sáng tạo gắn với quá trình chuyển đổi số và các yếu tố ICT. Kết nối các doanh nghiệp đầu tư thứ cấp và các nhà phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm phát triển từng bước cộng sinh công nghiệp, giảm chi phí sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững, từng bước hình thành yếu tố cốt lõi của KCN sinh thái.
Cần đảm bảo tính kết nối giữa các doanh nghiệp
Theo ý kiến của TS Huỳnh Thanh Điền - Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, nếu phát triển mô hình khu/cụm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao phải theo nguyên tắc: đảm bảo tính kết nối cung cầu hiệu quả giữa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đầu cuối và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đảm bảo tính liên kết "mở" giữa các doanh nghiệp trong khu/cụm với các doanh nghiệp bên ngoài và liên kết với các doanh nghiệp khác với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Khu/cụm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao cần ưu tiên thu hút các doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí có khả năng nâng cao giá trị sản xuất, có khả năng xuất khẩu ra thị trường khu vực, cung cấp cho FDI trong nước, có khả năng thay thế nhập khẩu, cung cấp cho doanh nghiệp sản phẩm đầu cuối trong nước, công nghệ ứng dụng thân thiện môi trường, ít thâm dụng lao động và mặt bằng.
Để làm được điều này, TP cũng cần phải có những chính sách hỗ trợ nhất định.
Đó là xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ hoặc liên kết công nghệ với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Qua đó, hình thành được mạng lưới vệ tinh doanh nghiệp nhỏ và vừa cung ứng dưới hình thức tích hợp với doanh nghiệp lớn. Xây dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp phát triển vệ tinh cung ứng phụ trợ trong nước và phát triển hệ thống nhà cung ứng nội địa.
TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright cho rằng, TP cần phác thảo lộ trình phát triển cụm ngành công nghiệp hỗ trợ cho TPHCM. Lộ trình này phải được thực hiện theo 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1 bắt đầu bằng việc phân tích chiến lược, nhận diện tiềm năng về phát triển các cụm ngành hiện hữu của TPHCM. Các tiềm năng này đến từ những nền tảng sẵn có của TPHCM hoặc mở rộng tiếp cận toàn vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam và cả các đối tác là nhà đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, cần phải lập được sơ đồ hiện trạng cụm ngành để nhận diện mức độ phát triển của các cấu phần trong cụm.
Giai đoạn 2 tập trung vào việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra ở Giai đoạn 1. Bước đầu của giai đoạn này, cơ quan điều phối sẽ nhận diện các đối tác tiềm năng và lên kế hoạch thu hút sự tham gia của các bên liên quan vào cụm. Cũng ở giai đoạn này, chính quyền sẽ tiến hành đặt hàng R&D trên cơ sở nhu cầu của cụm.
Giai đoạn 3 là thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ hợp tác và tăng cường các liên kết sâu sắc hơn. Các giá trị của cụm cũng bắt đầu được lan tỏa ra nền kinh tế, như các liên kết, hợp đồng ngoài cụm, chia sẻ tri thức, lan tỏa công nghệ và giải pháp, chuyển dịch lao động kỹ năng từ trong cụm ra bên ngoài, đóng góp thuế cho ngân sách...
Điều quan trọng là do đặc tính chu kỳ của các dòng sản phẩm mà sự phát triển của cụm đòi hỏi phải liên tục cập nhật, tự đổi mới và nâng cấp chính mình, chuyển từ đuổi kịp sang cận biên, chuyển từ khai thác lợi thế cạnh tranh sẵn có sang tự tạo các lợi thế so sánh mới.
TPHCM dành quỹ đất để hình thành KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao
Tại hội thảo, nhiều chuyên gia, nhà khoa học, kinh tế trong và ngoài nước cũng đã đưa ra những kinh nghiệm hay từ nghiên cứu và thực tiễn trên thế giới để TP có thể áp dụng. Trong đó tập trung vào 4 nhóm vấn đề mà TP quan tâm như kinh nghiệm kêu gọi thu hút đầu tư vào “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao” nhằm đề xuất, hiến kế cho Thành phố những kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn TPHCM Mô hình hoạt động, vận hành của “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao” phù hợp với vị trí, vai trò của TPHCM.
Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như cơ chế, chính sách cần thiết cho việc hình thành, quản lý hoạt động của “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao”. Vai trò của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp sản xuất trong nước trong việc tham gia đầu tư và hoạt động tại “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao”.
Theo Phó chủ tịch UBND TPHCM Võ Văn Hoan, TP nhận thức được "điểm nghẽn" đang kìm hãm sự phát triển công nghiệp hỗ trợ, tác động đến sự phát triển công nghiệp Thành phố nói chung; trong thời gian tới, bên cạnh việc thực hiện các chủ trương giảm các ngành nghề thâm dụng lao động trong các KCN - KCX, xây dựng các KCN chuyên ngành, kết nối hình thành các KCN chuyên ngành về y tế, KCN dược, KCN lương thực thực phẩm, KCN cơ khí;
Thành phố cũng đang dành quỹ đất để hình thành KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao.
Vấn đề này, Thành phố đã ấp ủ từ lâu việc hình thành “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao” với cơ sở hạ tầng kỹ thuật phù hợp, quy tụ tất cả doanh nghiệp công nghệ cao, tạo ra một cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, làm cơ sở thúc đẩy phát triển ngành sản xuất công nghiệp hỗ trợ lớn mạnh, từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, xứng tầm với vai trò trung tâm kinh tế của Thành phố.
Việc hình thành và đi vào hoạt động “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao” là yêu cầu bức thiết, nhất là trong giai đoạn hậu công nghiệp hiện nay, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của các KCN hiện hữu là nhu cầu tất yếu khách quan, tạo ra động lực tăng trưởng mới cho kinh tế Thành phố.
Bắt nguồn từ sự trăn trở đó, Thành phố đã chuẩn bị hơn 300 ha đất để hình thành KCN hỗ trợ trợ ứng dụng công nghệ cao. Từ đó, hình thành những doanh nghiệp thiết kế, sản xuất, cùng liên kết để cung cấp sản phẩm ứng dụng công nghệ cao cho công nghiệp hỗ trợ.
Thành phố nhìn nhận mô hình “KCN hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao” tuy là mô hình phổ biến và đã phát huy hiệu quả tại các nước trên thế giới (Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan…) nhưng còn là vấn đề mới, các vấn đề về cơ chế hoạt động, thu hút đầu tư, mô hình vận hành, quản lý chưa được quy định cụ thể.



