Theo hội đồng xét xử, về nguồn gốc tài sản, chỉ có căn cứ xác định nguyên đơn gửi 2 khoản tiền 47 tỷ đồng và 700.000 USD cho bị đơn. Số tiền còn lại nguyên đơn trình bày đưa tiền mặt cho bị đơn để mua tài sản nhưng bị đơn không thừa nhận nên không có căn cứ xác định.
Các khoản tiền ông Đức An gửi cho bà Ngọc Thúy là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, không có căn cứ xác định tài sản tranh chấp là tài sản riêng của ông An. Các khoản tiền khác ông An không cung cấp được chứng cứ chứng minh có gửi số tiền này cho bà Thúy.
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xác định các tài sản tranh chấp là tài sản riêng của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu phản tố của bà Ngọc Thúy, hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, xác định các tài sản tranh chấp là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (trừ căn hộ V1-1004 và tiền trong 3 tài khoản ngân hàng của bị đơn có sau thời kỳ hôn nhân).
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu chia 1/2 giá trị 5 căn biệt thự tại dự án Sealinks, tỉnh Bình Thuận.
Theo hội đồng xét xử, không có căn cứ xác định ông An nhận tiền từ việc bán 5 căn biệt thự Phan Thiết nên không chấp nhận yêu cầu chia tài sản với 5 tài sản này.
Đối với 15 tài sản gồm 5 căn hộ tại tòa nhà Avalon quận 1; 4 căn hộ tại tòa nhà Sailing, quận 1; biệt thự N4+N5 quận Bình Thạnh; số tiền bồi thường căn nhà 95A Trần Phú, TP Vũng Tàu; số tiền cho thuê 9 căn hộ tại quận 1 từ năm 2009 đến 2023... hội đồng xét xử tuyên chia đôi.
Về án phí, tòa buộc Ngọc Thúy phải nộp hơn 200 triệu đồng.
Ông An đăng ký kết hôn với Ngọc Thúy tại Mỹ vào năm 2006, có 2 con chung. Đến tháng 3/2008, hai vợ chồng ly hôn tại tòa án bang California, Mỹ.
Năm 2010, ông An gửi đơn kiện đến TAND TPHCM, yêu cầu vợ cũ trả lại 39 loại tài sản mua tại Việt Nam vì cho rằng tài sản "mua bằng tiền riêng có được trước khi kết hôn với Ngọc Thúy". Trong thời gian hai người là vợ chồng, do ông mang quốc tịch Mỹ nên phải nhờ vợ đứng tên sở hữu.