Đăng nhập

Thủ tục xét xử vụ án hình sự khi bị cáo vắng mặt

VOH - Tòa án có quyền đưa ra xét xử vụ án hình sự khi mà bị cáo trong vụ án vắng mặt hay không? Khi đó quyền bào chữa cho bị cáo được thực hiện như thế nào?

Theo qui định của luật Tố tụng hình sự 2015 thì tòa có quyền đưa ra xét xử vụ án hình sự vắng mặt bị cáo. Thế nhưng bị cáo có mất quyền bào chữa không nếu bị xét xử vắng mặt? Luật sư Nguyễn Thế Hùng, đoàn luật sư TPHCM trao đổi với VOH:

Thủ tục xét xử vụ án hình sự khi bị cáo vắng mặtXem toàn màn hình
Thủ tục xét xử vụ án hình sự khi bị cáo vắng mặt - Ảnh minh họa

*VOH: Theo qui định của luật thì tòa hình sự có quyền đưa ra xét xử vụ án hình sự khi mà bị cáo có vai trò chính yếu trong vụ án vắng mặt (bỏ trốn) hay không?

Luật sư Nguyễn Thế Hùng: Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp sau

Bị cáo bỏ trốn và việc truy nã không có kết quả

Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa

Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được tòa án chấp nhận

Sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử dù không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. 

Đây là quy định tại khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quy định này cũng được áp dụng trong tình huống bị cáo chủ mưu của vụ án bỏ trốn, như được nêu trong câu hỏi.

*VOH: Việc đảm bảo quyền bào chữa cho các bị cáo vắng mặt được thực hiện như thế nào?

Luật sư Nguyễn Thế Hùng: Theo quy định của pháp luật hình sự, khi bị cáo, người đại diện hoặc người thân của bị cáo không có điều kiện mời luật sư bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ chỉ định luật sư để bào chữa cho họ, nếu:

Bị can, bị cáo bị cáo buộc về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt tù lên đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình

Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa

Người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

Cũng theo quy định của pháp luật hình sự, sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa là rất cần thiết. Chính vì vậy, trong trường hợp người bào chữa được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định mà vắng mặt thì tòa án sẽ quyết định hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.

Nguyên tắc này cũng được áp dụng để đảm bảo quyền bào chữa cho các bị cáo vắng mặt trong các phiên tòa hình sự.

*VOH: Luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt được người nhà bị cáo thuê hoặc luật sư được chỉ định nếu không trao đổi thông tin được với bị cáo vắng mặt (bỏ trốn) thì có thể đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo được không?

Luật sư Nguyễn Thế Hùng:  Khái niêm “thông tin” được đặt ra trong câu hỏi có ý nghĩa chứng cứ cần thu thập trong vụ án. Chứng cứ là yếu tố vô cùng quan trong, góp phần vô cùng lớn đến quan điểm xét xử. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng, khi bị cáo bỏ trốn, thì chỉ người bào chữa cho bị cáo gặp thêm khó khăn còn bị cáo thì không hề mất đi quyền được bào chữa như câu hỏi đặt ra.

Sở dĩ nói như vậy là do, theo quy định tại Khoản 2 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, để thu thập chứng cứ, người bào chữa “có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án…”.

Bị cáo bỏ trốn thì quy định về quyền vừa nêu đối với luật sư trở nên bất khả thi, cũng có nghĩa là hiệu quả bào chữa cho bị cáo không được như mong muốn. Và chỉ vậy thôi.

*VOH: Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tòa án ra quyết định thi hành án. Cơ quan công an sẽ căn cứ vào quyết định thi hành án để ra quyết định truy nã, tổ chức truy bắt các bị cáo. Tuy nhiên, khi đó bị cáo khai ra những tình tiết mới thì vụ án có được xem xét lại hay không?

Luật sư Nguyễn Thế Hùng: Theo tinh thần của câu hỏi thì đây là bản án hình sự phúc thẩm. Về nguyên tắc bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay sau khi được tòa tuyên. Chính vì vậy, bản án phúc thẩm không thể bị kháng cáo mà chỉ có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, nếu có căn cứ.

Tình huống mà câu hỏi nêu ra là chính người bị kết án chủ động khai  những tình tiết mới. Theo quy định tại Điều 374 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khi phát hiện được tình tiết mới là dấu hiệu của sự vi phạm pháp luật trong bản án, người bị kết án có thể thông báo bằng văn bản hoặc đến trình bày trực tiếp với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với tòa án, viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật, nếu có.

Một khi tiếp nhận được thông tin, các cơ quan có thẩm quyền vừa nêu sẽ tiến hành lập biên bản, ghi nhận. Sau đó các cơ quan này phải gửi ngay thông báo, biên bản kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật, nếu có cho người có thẩm quyền kháng nghị và thông báo bằng văn bản cho người bị kết án đã có đề nghị được biết.

Như vậy có căn cứ để xem xét lại bản án hình sự đã có hiệu lực như câu hỏi đặt ra.

Cần nói thêm, theo quy định tại Điều 379 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, việc kháng nghị có thể được tiến hành bất cứ lúc nào nếu có lợi cho người bị kết án, kể cả trong trường hợp họ đã chết mà cần minh oan cho họ.

*VOH: Xin cảm ơn Ls.

Bình luận