Tuần qua, giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây nguyên giảm 100 – 200 đồng, xuống dao động trong khung 29.900 – 30.300 đồng/kg.
Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 31.000 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 30.300 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng tăng nhẹ 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà lên mức 30.400 đồng/kg, tại Di Linh lên ngưỡng 30.300 đồng/kg.
Song song đó, giá cà phê tại Đắk Lắk cũng tăng 100 đồng/kg, khu vực Cư M'gar lên mức 31.000 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê lên ngưỡng 30.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai tăng 100 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai lên mức 30.700 đồng/kg
Giá cà phê tại Đắk Nông tăng 100 đồng/kg lên mức 30.700 đồng/kg.
Riêng giá cà phê tại Kon Tum tăng 200 đồng/kg lên mức 30.700 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM dao động trong khoảng 32.100đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
30,400 |
+100 |
— Lâm Hà (Robusta) |
30,400 |
+100 |
— Di Linh (Robusta) |
30,300 |
+100 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
31.000 |
+100 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
30,800 |
+100 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
30,700 |
+100 |
_ Ia Grai (Robusta) |
30,700 |
+100 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
30,700 |
+100 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
30.700 |
+200 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
32,100 |
0 |
Ảnh minh họa: internet
Người dân trồng cà phê trong nước đang phải đối mặt với rủi ro kép: Cùng với việc giá bán đi xuống, giá nhân công, phân bón tăng, nông dân còn khó khăn hơn với tình trạng hạn hán ở khu vực Tây Nguyên.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên, mùa khô năm 2020 tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng có chiều hướng gia tăng. Do đó, nhiều diện tích hoa màu, cây công nghiệp, nhất là cây cà phê không có nước tưới, nhiều hộ dân đang lâm vào tình cảnh thiếu nước sinh hoạt. Ngành cà phê cùng lúc chịu tác động kép do hạn hán và dịch Covid-19 lan rộng khiến giá cà phê chạm đáy 10 năm.
Theo Cục Xuất nhập khẩu dự báo giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới vẫn biến động theo xu hướng giảm. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê thế giới tăng cao trong những năm gần đây, trong khi nhu cầu chỉ tăng từ 2 – 2,5%/năm khiến cung vượt cầu.
Xuất khẩu cà phê tháng 4 năm 2020 ước đạt 165 nghìn tấn với giá trị đạt 272 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2020 đạt 654 nghìn tấn và 1,1 tỉ USD, tăng 3,7% về khối lượng và tăng 1,5% về giá trị so với cùng kì năm 2019.
Đức, Italy và Mỹ tiếp tục là ba thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2020 với thị phần lần lượt là 16% (133,7 triệu USD), 8,6% (72,2 triệu USD ) và 8,5% (70,7 triệu USD).
Giá cà phê xuất khẩu bình quân 4 tháng đầu năm 2020 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 2,1% so với cùng kì năm 2019.
Trong tháng 4, giá cà phê thế giới biến động giảm. Cụ thể, giá xuất khẩu bình quân tháng 4 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 5% so với tháng 3, và giảm 2,9% so với cùng kì năm 2019.
Tại sàn giao dịch New York sau nhiều phiên tăng liên tiếp, giá cà phê arabica kì hạn giao tháng 5 giảm mạnh, giao dịch ở mức 2.448 USD/tấn, giảm 5,27% so với tháng trước. Giá cà phê robusta giao tháng 5 thị trường London giảm 102 USD/tấn xuống còn 1.084 USD/tấn.
Giá cà phê thế giới chốt tuần trái chiều
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
07/20 |
1186 |
-15 |
-1.25 |
7945 |
1193 |
1170 |
1192 |
1201 |
63352 |
09/20 |
1206 |
-16 |
-1.31 |
5138 |
1215 |
1191 |
1215 |
1222 |
33133 |
11/20 |
1225 |
-18 |
-1.45 |
2418 |
1231 |
1210 |
1231 |
1243 |
16601 |
101/21 |
1245 |
-18 |
-1.43 |
560 |
1250 |
1230 |
1249 |
1263 |
10705 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
07/20 |
111.65 |
+2.65 |
+2.43 |
15765 |
113.15 |
108.60 |
108.60 |
109 |
79729 |
09/20 |
112.70 |
+2.60 |
+2.36 |
6391 |
114.15 |
109.45 |
109.45 |
110.10 |
47973 |
12/20 |
114.35 |
+2.35 |
+2.1 |
4845 |
115.80 |
111.35 |
111.35 |
112 |
50861 |
03/21 |
116.15 |
+2.30 |
+2.02 |
2136 |
117.35 |
113.20 |
113.20 |
113.85 |
22369 |
Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) điều chỉnh ước tính tiêu thụ cà phê toàn cầu trong niên vụ 2019/2020 tăng thêm 0,5% so với niên vụ cà phê trước đó, lên ở mức 166,06 triệu bao. Do đó, sản lượng dự kiến sẽ vượt mức tiêu thụ 1,95 triệu bao, thay vì thiếu hụt 0,47 triệu bao như đã ước tính… Trong khi đó, dự báo thời tiết đưa khả năng cao sẽ có sương giá trên các vùng cà phê Arabica ở miền nam Brasil.
Tính chung cả tuần 19, thị trường London có 2 phiên tăng và 2 phiên giảm. Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm tất cả 19 USD, tức giảm 1,58%, xuống 1.186 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 giảm tất cả 18 USD, tức giảm 1,47 %, còn 1.208 USD/tấn, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Trong khi đó, thị trường New York có 3 phiên tăng và 2 phiên giảm. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng tất cả 5,55 cent, tức tăng 5,23 %, lên 111,65 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 tăng tất cả 5,45 cent, tức tăng 5,08 %, lên 112,7 cent/lb, các mức tăng rất mạnh. Khối lượng giao dịch duy trì khá cao trên mức trung bình.
Giá cà phê Arabica vẫn còn nguyên sức ép bán hàng vụ mới đã bắt đầu thu hoạch ở Brasil và đồng Reais giảm xuống mức thấp kỷ lục gây bất lợi. Tuy nhiên, báo cáo tồn kho tại hai sàn kỳ hạn giảm xuống quá thấp, đặc biệt khi nhiều quốc gia bắt đầu dỡ bỏ các biện pháp cách ly xã hội đã thu hút giới đầu cơ quay lại các thị trường tăng mua.
Báo cáo Cam kết Thương nhân (CFTC) mới nhất từ thị trường cà phê Aarabica ở New York cho thấy, tính đến thứ Ba ngày 28/4, bộ phận đầu cơ phi thương mại đã giảm vị thế mua ròng bớt 36,52% xuống đăng ký ở 6.398 lô, tương đương 1.813.805 bao và có khả năng đã tăng mạnh trở lại sau giai đoạn thương mại chủ yếu tích cực hơn kể từ sau đó.
Báo cáo CFTC mới nhất từ thị trường cà phê Robusta tại London cho thấy, tính đến cùng kỳ báo cáo, đầu cơ ngắn hạn của các Quỹ quản lý tiền đã giảm vị thế bán ròng thêm 2,76 % so với tuần thương mại trước đó, xuống đăng ký bán ròng ngắn hạn ở 34.112 lô, tương đương 5.685.333 bao và có khả năng đã được giảm thêm sau giai đoạn thương mại tích cực hơn kể từ sau đó.
Tính đến thứ Hai ngày 04/5, tồn kho cà phê Robusta được sàn London chứng nhận và theo dõi cấp phát đã giảm thêm 3.900 tấn, tức giảm 2,86 % so với tuần thương mại trước đó, xuống đăng ký ở 132.700 tấn (tương đương 2.211.667 bao, bao 60 kg).