Giá cà phê trong nước hôm nay đứng yên, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 40.900 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 40.200 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 40.300 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 40.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 40.900 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 40.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai, giá ở Pleiku là 41.000 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 41.000 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông, dao động ở ngưỡng 41.000 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum, dao động ở 41.000 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM, dao động ở 45,000 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
40,300 |
0 |
Lâm Hà (Robusta) |
40,300 |
0 |
Di Linh (Robusta) |
40,200 |
|
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
40,900 |
0 |
Buôn Hồ (Robusta) |
40,800 |
0 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
41,000 |
0 |
Ia Grai (Robusta) |
41,000 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
41,000 |
0 |
|
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
41,000 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
45,000 |
0 |
FOB (HCM) |
1,952 |
Trừ lùi: +60 |
Số liệu mới đây của Tổng cục Hải quan cho thấy xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng cao bất chấp triển vọng kém khả quan của nền kinh tế toàn cầu.
Trong tháng 11, tổng khối lượng cà phê xuất khẩu đạt 128.403 tấn với trị giá 304,4 triệu USD, tăng 60,8% về lượng và tăng 47,1% về trị giá so với tháng trước, đồng thời so với cùng kỳ năm ngoái tăng 19,7% về lượng và 25,4% về trị giá.
Đà tăng trưởng này được thúc đẩy bởi nguồn cung từ vụ thu hoạch mới 2022-2023 và nhu cầu từ các thị trường lớn vẫn ở mức cao.
Như vậy, tính đến hết tháng 11, xuất khẩu cà phê đã đạt 1,58 triệu tấn với kim ngạch thu về hơn 3,63 tỷ USD, tăng 13,4% về lượng và tăng 34,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Với kết quả này, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sau 11 tháng đã vượt 556 triệu USD so với
Giá cà phê thế giới tăng
Khảo sát phiên giao dịch ngày 16/12, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London có xu hướng hỗn hợp. Kỳ hạn giao ngay tháng 1 tăng thêm 31 USD, lên 1.946 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3 tăng 1 USD, lên 1.878 USD/tấn, trong khi các kỳ hạn giao xa đều giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York tiếp nối đà tăng lên phiên thứ tư. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng thêm 3,60 cent, lên 171,75 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5 tăng thêm 3,15 cent, lên 171,65 cent/lb, các mức tăng khá mạnh. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Các thị trường cà phê kỳ hạn tiếp tục biến động với hai xu hướng khác biệt, tiếp nối đà tăng ở New York và tương đối ổn định tại Lodon. Thông tin lượng tồn kho của ICE – New York vẫn còn ở mức thấp 23 năm và thời tiết ở các vùng cà phê chính phía đông nam Brasil có quá nhiều mưa sẽ gây ngập úng cho nhiều trang trại và bất lợi cho sự phát triển quả trong vụ mùa mới 2023.
Thị trường đón nhận quyết định nâng lãi suất USD lần này của Fed thêm 0,5% một cách ''tích cực'' do đã suy đoán trước đó. Trong khi đó, kết quả xuất khẩu cà phê hạt trong tháng 11/2022 của Brazil chỉ đạt 3,30 triệu bao cà phê Arabica, tăng 25,49 % và 98.995 bao cà phê Conilon Robusta, giảm 55,27% so với cùng kỳ năm trước.
Điều này phản ánh cà phê Robusta hiện rất khó mua do nhu cầu cạnh tranh của ngành công nghiệp quốc gia này, nhưng cái chính là sản lượng vụ mùa thu hoạch năm nay không cao như đã dự báo trước đó.
Thêm vào đó, theo chuyên gia Nguyễn Quang Bình, hiện tượng La Nina đang gây mưa lũ tại các vùng trồng cà phê Brazil đang gây lo ngại cho sản lượng cà phê vụ tới. Yếu tố trên giúp Arabica giữ được đà tăng từ đầu tuần. Hiện nay, so với đầu tuần, giá cà phê Arabica giao tháng 3/2023 tăng 13,6 cent/lb, giao tháng 5/2023 tăng 12,7 cent/lb. Con số tăng rất đáng kể khi tuần trước mặt hàng cà phê này mất 4,45 cent.