Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 32.000 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 31.200 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng giảm 300 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà về mức 31.300 đồng/kg, tại Di Linh về ngưỡng 31.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk cũng giảm 300 đồng/kg, về mức 32.000 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê về ngưỡng 31.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 300 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch về mức 31.600 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 300 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 31.600 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 300 đồng/kg, dao động về mức 31.400 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 200 đồng/kg, dao động trong ngưỡng 33.300 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.418 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 100 – 120 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 3 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
31,300 |
-300 |
— Lâm Hà (Robusta) |
31,300 |
-300 |
— Di Linh (Robusta) |
31,200 |
-300 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
32.000 |
-300 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
31,800 |
-300 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
31,600 |
-300 |
_ Ia Grai (Robusta) |
31,600 |
-300 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
31,600 |
-300 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
31.400 |
-300 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
33,300 |
-200 |
Trong 9 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu cà phê ước đạt 1,25 triệu tấn, trị giá 2,16 tỉ USD, giảm 1,4% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu, xuất khẩu cà phê tháng 9 giảm 0,2% về lượng, nhưng tăng 2% về trị giá so với tháng 8/2020; tăng 8,3% về lượng và tăng 11,6% về trị giá so với tháng 9/2019.
Trong 9 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu cà phê ước đạt 1,25 triệu tấn, trị giá 2,16 tỉ USD, giảm 1,4% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Tháng 9, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt mức 1.880 USD/tấn, tăng 2,2% so với tháng 8/2020 và tăng 3% so với tháng 9/2019. Trong 9 tháng đầu năm 2020, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt mức 1.725 USD/tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Simexco, thương nhân xuất khẩu cà phê lớn nhất Tây Nguyên, cũng dự báo sản lượng vụ thu hoạch sắp tới của Việt Nam sẽ giảm khoảng 4,8% so với vụ trước, do nhiều diện tích cà phê già cỗi phải thực hiện tái canh và nông dân đưa thêm nhiều cây trồng có giá trị vào xen canh.
Ông Phan Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam nhận định hiện vẫn chưa thấy yếu tố hỗ trợ giá cà phê trong thời gian tới trong bối cảnh thị trường thế giới vẫn đang ảm đạm.
Trong báo cáo mới nhất cập nhật hôm 2/9, Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) mới đây đưa ra dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2019 - 2020 ước tính đạt 31,5 triệu bao trong niên vụ 2019 - 2020, cao hơn 0,7% so với niên vụ trước.
Tuy nhiên, trao đổi với người viết, ông Phan Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam, đồng thời là Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam - Công ty TNHH MTV (VINACAFE) nhận định con số ICO đưa ra chưa thực sự chính xác bởi đợt hạn hán vừa qua ở khu vực Tây Nguyên gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng.
Giá cà phê thế giới giảm mạnh
Đà tăng trên sàn London bị chững lại trước lực kéo giảm từ sàn New York khi người Brasil vẫn mạnh tay bán hàng vụ mới.
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
11/20 |
1265 |
-15 |
-1.17 |
3992 |
1283 |
1261 |
1283 |
1280 |
22302 |
01/21 |
1289 |
-16 |
-1.23 |
7422 |
1310 |
1285 |
1310 |
1305 |
37533 |
03/21 |
1298 |
-13 |
-0.99 |
2467 |
1313 |
1295 |
1312 |
1311 |
24841 |
05/21 |
1311 |
-14 |
-1.06 |
267 |
1323 |
1309 |
1321 |
1325 |
12428 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
12/20 |
104.9 |
-1.15 |
-1.08 |
17967 |
107.25 |
104 |
107.05 |
106.05 |
90163 |
03/20 |
107.8 |
-1.15 |
-1.06 |
10329 |
110.15 |
106.95 |
110.15 |
108.95 |
73189 |
05/21 |
109.45 |
-1.05 |
-0.95 |
3930 |
111.6 |
108.55 |
111.6 |
110.5 |
33399 |
07/21 |
110.9 |
-0.95 |
-0.85 |
2385 |
113 |
110 |
113 |
111.85 |
30186 |
Mở cửa phiên giao dịch ngày 21/10, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 11 giảm 15 USD, xuống 1.265 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 1 giảm 16 USD, còn 1.289 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3 giảm 13 USD, còn 1.298 USD/tấn, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York có phiên thứ năm sụt giảm lien tiếp. Kỳ hạn giao ngay tháng 12 giảm thêm 1,15 cent, xuống 104,9 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3 cũng giảm thêm 1,15 cent, còn 107,8 cent/lb, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Đồng Reais giảm nhẹ 0,05 %, xuống ở mức 1 USD = 5,6100 Reais khi có tín hiệu lạc quan hơn về gói tài trợ mới đã giúp chứng khoán Mỹ lấy lại màu xanh.
Giá cà phê hai sàn kỳ hạn sụt giảm với khối lượng thương mại không cao, khi đầu cơ chuyển vốn tìm nơi trú ẩn, tránh khỏi những bất ổn có thể xảy ra ngay trước và sau bầu cử tổng thống Mỹ. Báo cáo con số lây nhiễm dịch bệnh covid-19 gia tăng khắp nơi khiến nhiều thị trường tiêu thụ lớn buộc phải tái lập các biện pháp giãn cách xã hội với quy mô mở rộng hơn nữa, trong bối cảnh sản xuất vắc-xin phòng ngừa vẫn chưa chắc chắn.
Thị trường cà phê Robusta có sự quan tâm nhiều hơn, khi nhà sản xuất lớn nhất thế giới tiếp tục hứng chịu mưa lũ kéo dài, do hiện tượng thời tiết La Nina xuất hiện trên vành đai Thái Bình Dương sẽ làm vụ thu hoạch mới có thể bị chậm lại vài tuần.
Sản lượng cà phê Arabica của Ấn Độ đã giảm xuống mức thấp nhất trong 12 năm qua do sâu hại tấn công và thời tiết diễn biến bất thường, theo trang Live Mint.
Cụ thể, bệnh gỉ sắt, bệnh sâu đục thân trắng, các trận mưa lớn kéo dài kết hợp với việc thiếu lao động có tay nghề trong việc loại bỏ cây nhiễm bệnh là những nguyên nhân chính khiến sản lượng cà phê arabica của Ấn Độ giảm mạnh.
Trong khi đó, theo dữ liệu từ Hội đồng Cà phê Ấn Độ vào hôm qua (20/10), giá cà phê arabica hiện đang đạt ngưỡng từ 10.500 - 11.000 rupee mỗi bao 50kg, tăng lên từ mức trung bình 8.913 rupee vào hồi đầu năm.