Giá cà phê hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 29.900 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 29.200 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng giảm nhẹ 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà về mức 29.300 đồng/kg, tại Di Linh về ngưỡng 29.200 đồng/kg.
Song song đó, giá cà phê tại Đắk Lắk cũng giảm nhẹ 100 đồng/kg, khu vực Cư M'gar về mức 29.900 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê về ngưỡng 29.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 100 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai giá về ngưỡng 29.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 100 đồng/kg về mức 29.700 đồng/kg.
Riêng giá cà phê tại Kon Tum tăng 100 đồng/kg về mức 29.700 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM không đổi , vẫn ở ngưỡng 31.200đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
29,300 |
-100 |
— Lâm Hà (Robusta) |
29,300 |
-100 |
— Di Linh (Robusta) |
29,200 |
-100 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
29.900 |
-100 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
29,800 |
-100 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
29,700 |
-100 |
_ Ia Grai (Robusta) |
29,700 |
-100 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
29,700 |
-100 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
29.700 |
+100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
31,200 |
0 |
Ảnh minh họa: internet
Ông Phan Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam nhận định nếu ngành cà phê vượt qua khó khăn trong năm 2020, bước sang 2021 sẽ là năm tăng trưởng đột phá do nhu cầu được dự báo tăng mạnh khi các sự kiện văn hoá, thể thao lớn trên thế giới đồng loạt tổ chức trở lại.
Hạn hán, dịch COVID-19, giá cà phê chạm đáy 10 năm! Đó là những gì mà ngành cà phê Việt Nam đang phải trải qua.
Hạn hán ở khu vực Tây Nguyên gây thiệt hại lớn cho cây cà phê. Tình trạng thiếu nước tưới đang diễn ra ở nhiều địa phương của tỉnh Đắk Nông. Bộ Công Thương cũng cảnh báo nếu tình trạng khô hạn vẫn diễn ra dự báo trong tháng 4 và tháng 5, hàng chục nghìn ha cây trồng tại Đắk Nông thiếu nước tưới.
Không dừng lại ở đó, giá cà phê trong tháng 3 giảm xuống mức thấp nhất trong 10 năm qua gây áp lực cho cả nhà xuất khẩu lẫn người nông dân.
Cụ thể, ngày 30/3, giá cà phê giảm từ 4,8 - 5,7% so với ngày 29/2, xuống còn 29.500 đồng/kg tại huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng và 30.000 đồng/kg tại huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk.
Tại cảng khu vực TP HCM, giá cà phê robusta loại R1 giảm 4,9% so với ngày 29/2, xuống mức 31.300 đồng/kg.
Tại tỉnh Đồng Nai, lợi nhuận từ cây cà phê mỗi năm mỗi giảm khiến cho diện tích trồng cà phê trong tỉnh có xu hướng thu hẹp lại. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng hơn 13.000 ha cà phê, giảm khoảng 4.000 ha so với cuối năm 2017.
Trao đổi với người viết, ông Nguyễn Nam Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam dự báo sản lượng cà phê niên vụ 2020 - 2021 sẽ giảm 15% so với niên vụ 2019 - 2020.
Vấn đề gây đau đầu cho các doanh nghiệp xuất khẩu lúc này có lẽ là đại dịch COVID-19 lây lan quá nhanh và rộng rãi, buộc nhiều nước phải áp dụng chính sách phong toả hoặc giãn cách xã hội. Hàng loạt nhà hàng, chuỗi quán cà phê đóng cửa kéo theo nhu cầu mặt hàng này giảm mạnh.
Theo đó, Chính phủ nhiều nước trong đó có Châu Âu và Mỹ đã có lệnh cấm hoạt động mua bán phục vụ cà phê trực tiếp, nhiều chuỗi, hàng quán đóng cửa là một thiệt hại lớn cho ngành cà phê, nhất là người trồng.
Tại Mỹ, chuỗi cửa hàng cà phê Starbucks đã tuyên bố đóng cửa vô thời hạn một số địa điểm rang xay tại nhiều bang ở Mỹ trong cuối tháng 3/2020.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, trong 10 ngày đầu tháng 4/2020, giá cà phê Robusta giao kỳ hạn biến động không đồng nhất, trong khi giá cà phê Arabica tăng.
Giá cà phê thế giới giảm
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
05/20 |
1140 |
-11 |
-0.96 |
3342 |
1155 |
1138 |
1155 |
1151 |
18721 |
07/20 |
1177 |
-11 |
-0.93 |
8400 |
1191 |
1174 |
1187 |
1188 |
59996 |
09/20 |
1195 |
-11 |
-0.91 |
2670 |
1210 |
1193 |
1206 |
1206 |
30216 |
11/20 |
1213 |
-11 |
-0.9 |
920 |
1229 |
1212 |
1228 |
1224 |
16188 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
05/20 |
113.65 |
-2.40 |
-2.07 |
5968 |
116.75 |
113.05 |
116.30 |
116.05 |
8451 |
07/20 |
115.25 |
-2.30 |
-1.96 |
16063 |
118.40 |
114.75 |
117.75 |
117.55 |
73615 |
09/20 |
118.10 |
-2.05 |
-1.71 |
2639 |
121.15 |
117.65 |
120.15 |
120.15 |
43956 |
12/20 |
118.10 |
-2.05 |
-1.71 |
2639 |
121.15 |
117.65 |
120.15 |
120.15 |
43956 |
Trên thị trường thế giới, 9h30 ngày 21/4/2020 giá cà phê robusta giao tháng 5/2020 trên sàn Robusta (ICE Futures Europe) giảm 11 USD/tấn, tương đương 0,96% về mức 1.140USD/tấn
Giá cà phê arabica giao tháng 5/2020 trên sàn (ICE Futures US) 9h30 ngày 21/4/2020, giảm 2,40 USD/tấn, tương đương 2,07%, về mức 1.181 USD/tấn.
Đại dịch Covid-19 đã dẫn đến nhiều yếu tố gián đoạn nguồn cung, từ gián đoạn sản xuất cho đến giao thông vận tải hay bán lẻ, các quy định phong tỏa được áp dụng trên khắp thế giới.
Tình trạng gián đoạn nguồn cung sẽ có thể tiếp diễn khi mà Colombia, một nước xuất khẩu cà phê lớn của thế giới đang trong tình trạng phong tỏa.
Mùa thu hoạch của Colombia thông thường vào tháng 4/2020 nhiều khả năng sẽ chịu ảnh hưởng bởi biện pháp phong tỏa cũng như việc thiếu nguồn lao động từ các nước láng giềng. Quy định phong tỏa đất nước của Colombia dự kiến sẽ được duy trì từ 27/4/2020.
Trên phạm vi toàn cầu, ICO nói: “Hiện tại, nhu cầu ước tính sẽ cao hơn sản xuất. Gián đoạn với chuỗi cung ứng trong cả mùa vận chuyển và mùa thu hoạch sẽ có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm tạm thời, đẩy cao giá cả trong ngắn hạn”.
Sản lượng cà phê toàn cầu trong mùa vụ 2019 - 2020 ước tính đạt khoảng 168,71 triệu bao, giảm 0,9% so với 169 triệu bao trong năm trước đó. Sản lượng cà phê arabica xấp xỉ 95,68 triệu bao, giảm 2% trong khi sản lượng cà phê robusta xấp xỉ 71,72 triệu bao, tăng 1,5%.
Sự sụt giảm trong sản xuất toàn cầu chủ yếu là do sản lượng arabica của Brazil suy yếu khi nước này bước vào năm cuối của chu kì sản xuất hai năm một lần.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), sản lượng cà phê của Brazil trong năm 2019 - 2020 dự kiến đạt khoảng 59,30 triệu bao 60 kg, giảm 8% so với 64,8 triệu bao trong mùa trước.
Minas Gerais, bang sản xuất cà phê hàng đầu của Brazil, ước tính sản xuất khoảng 28,5 triệu bao so với 33,3 triệu bao trong mùa trước. Sản lượng của bang Sao Paolo có thể chỉ còn khoảng 5,3 triệu bao so với 6,3 triệu bao của mùa trước trong khi tại các bang khác, sản xuất cũng giảm xuống khoảng 5,4 triệu bao.