Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 33.100 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 32.300 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng tăng 400 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà lên mức 32.400 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 32.300 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk tăng 400 đồng/kg, tại Cư M'gar dao động lên mức 33.100 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 32.900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai cũng tăng 400 đồng/kg, ở Pleiku và Ia Grai giao dịch quanh mức 32.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông cũng tăng 400 đồng/kg, dao động lên ngưỡng 32.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum tăng 500 đồng/kg, dao động ở mức 32.600 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM tăng 400 đồng/kg, dao động lên ngưỡng 34.300 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.535 USD/tấn, FOB – HCM, với chênh lệch cộng co về ở mức 50 – 60 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 7 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
— Bảo Lộc (Robusta) |
32,400 |
+400 |
— Lâm Hà (Robusta) |
32,400 |
+400 |
— Di Linh (Robusta) |
32,300 |
+400 |
ĐẮK LẮK |
|
|
— Cư M'gar (Robusta) |
33.100 |
+400 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
32.900 |
+400 |
GIA LAI |
|
|
— Pleiku (Robusta) |
32,800 |
+400 |
_ Ia Grai (Robusta) |
32,800 |
+400 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
— Gia Nghĩa (Robusta) |
32,800 |
+400 |
KON TUM |
|
|
— Đắk Hà (Robusta) |
32.600 |
+500 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
34,300 |
+400 |
Trong tháng 1, giá cà phê trong nước giảm do nguồn cung tăng khi người dân tăng cường bán ra. Cục Xuất nhập khẩu dự báo thị trường cà phê toàn cầu vẫn diễn ra ảm đạm do Việt Nam sắp bước vào kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài, trong khi sức mua trên thị trường yếu.
Tháng 1, giá cà phê tại thị trường trong nước giảm theo xu hướng giá thế giới. Theo yếu tố chu kỳ, thời điểm trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, người trồng cà phê thường tăng bán ra, tuy nhiên năm nay lượng bán ra không bằng 1/2 so với các năm trước.
Ngày 29/1, giá cà phê giảm 1.500 – 1.600 đồng/kg (tương đương mức giảm từ 4,5 – 4,9%) so với ngày 31/12/2020, xuống mức 30.800 – 31.200 đồng/kg.
Tại cảng khu vực TP HCM, cà phê robusta loại R1 giảm 1.800 đồng/kg (giảm 5,2%) so với ngày 31/12/2020, xuống mức 32.700 đồng/kg.
Tháng 01, giá cà phê thế giới giảm do lo ngại dịch COVID-19 vẫn gia tăng trên toàn cầu, buộc nhiều quốc gia phải tái áp đặt lệnh phong tỏa và hạn chế đi lại.
Trên sàn giao dịch London, ngày 29/1 giá cà phê robusta giao kỳ hạn tháng 3/2021 và tháng 5/2021 cùng giảm 73 USD/tấn (tương đương mức giảm 5,3%) so với ngày 31/1/2020, xuống mức 1.303 USD/tấn và 1.313 USD/tấn.
Trên sàn giao dịch New York, ngày 29/01 giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 3,3 UScent/pound (tương đương mức giảm 2,6%) so với ngày 31/12/2020, xuống mức 124 UScent/pound.
Giá cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 5/2021 và tháng 7/2021 giảm lần lượt 2,9 UScent/pound (giảm 2,2%) và 2,4 UScent/pound (giảm 1,9%) so với ngày 31/12/2020, xuống mức 126,1 UScent/pound và 128 UScent/pound.
Cục Xuất nhập khẩu dự báo thị trường cà phê toàn cầu vẫn diễn ra ảm đạm do Việt Nam sắp bước vào kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài, trong khi sức mua trên thị trường yếu.
Theo Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), xuất khẩu cà phê toàn cầu trong 2 tháng đầu niên vụ 2020 - 2021 (tháng 10 và tháng 11/2020) đạt 20,2 triệu bao, tăng 6,5% so với cùng kỳ niên vụ 2019-2020.
Cục Xuất nhập khẩu dự báo giá cà phê sẽ tiếp tục phục hồi trong thời gian tới. Nhà đầu tư có xu hướng chuyển dòng vốn để quay lại thị trường hàng hóa. Điều này sẽ tác động tích cực lên thị trường cà phê toàn cầu trong thời gian tới.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), những ngày giữa tháng 1, giá cà phê trong nước tăng theo giá thế giới. Ngày 18/1, giá cà phê tăng 500 đồng/kg (tương đương mức tăng 1,6%) so với ngày 11/1, lên mức 31.700 – 32.400 đồng/ kg.
Tại cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, cà phê Robusta loại R1 tăng 400 đồng/kg (tăng 1,2%) so với ngày 11/1, lên mức 33.500 đồng/kg.
Sản lượng xuất khẩu cà phê bình quân đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn năm, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng trong những năm qua đạt trên 3 tỷ USD.
Ngành cà phê Việt Nam cần phát triển sản xuất, chế biến theo chuỗi giá trị, tăng cường kết nối sản xuất với thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu, phát triển sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu...để đạt mục tiêu xuất khẩu 6 tỷ USD vào năm 2030.
Với sản lượng xuất khẩu bình quân đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn năm, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng trong những năm qua đạt trên 3 tỷ USD, cùng với gạo, hạt điều, rau quả, cà phê là mặt hàng có vai trò quan trọng trong rổ các loại nông sản xuất khẩu chủ lực.
Năm kỷ lục của xuất khẩu cà phê là 2018, khi nước ta xuất bán 1,88 triệu tấn, trị giá đạt 3,54 tỷ USD, tăng 19,9% về lượng và 1,1% về trị giá so với 2017. Tuy nhiên, từ 2019, xuất khẩu mặt hàng này đã giảm khá mạnh khi sản lượng 1,65 triệu tấn, kim ngạch đạt khoảng 2,86 tỷ USD. So với năm 2018 khối lượng xuất khẩu giảm 11,9% và trị giá xuất khẩu giảm 19,3%.
2020 tiếp đà giảm của 2019 bởi tác động của dịch bệnh Covid-19 lan rộng trên toàn cầu, khi nhu cầu tiêu thụ cà phê giảm sút. Số liệu thống kê cho thấy, sản lượng xuất khẩu đạt 1,485 triệu tấn, trị giá 2,605 tỷ USD.
Hiện, cà phê Việt Nam đã có mặt tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung chủ yếu ở những thị trường lớn như Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ và Anh và các thị trường mới nổi như: Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Thailand…Trong đó, 2 thị trường nhập nhiều cà phê Việt Nam nhất là Đức và Hoa Kỳ.
Giá cà phê thế giới tiếp tục tăng
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
03/21 |
1444 |
+53 |
+3.81 |
150 |
1448 |
1390 |
1391 |
1391 |
6465 |
05/21 |
1460 |
+44 |
+3.11 |
26028 |
1465 |
1409 |
1416 |
1416 |
64040 |
07/21 |
1475 |
+44 |
+3.07 |
10011 |
1482 |
1424 |
1424 |
1431 |
24018 |
09/21 |
1491 |
+46 |
+3.18 |
3401 |
1496 |
1438 |
1438 |
1445 |
10234 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
03/20 |
136.85 |
+3.40 |
+2.55 |
79 |
136.85 |
132.85 |
133.25 |
133.45 |
336 |
05/20 |
138.3 |
+3.35 |
+2.48 |
36270 |
138.65 |
134.2 |
134.9 |
134.95 |
108855 |
07/21 |
140.05 |
+3.35 |
+2.45 |
15898 |
140.3 |
136 |
136.65 |
136.7 |
45950 |
09/21 |
141.55 |
+3.25 |
+2.35 |
13476 |
141.8 |
137.55 |
138.15 |
138.3 |
42413 |
Mở đầu phiên giao dịch ngày 24/2, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London tiếp nối đà tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng thêm 44 USD, lên 1.460 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 cũng tăng thêm 44 USD, lên 1.475 USD/tấn, các mức tăng mạnh. Khối lượng giao dịch duy trì ở mức rất cao, hiếm thấy. Giá cà phê Robusta lên đứng ở mức cao 5 tháng.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng thêm 3,35 cent, lên 138,3 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 7 cũng tăng thêm 3,35 cent, lên 140,05 cent/lb, các mức tăng khá mạnh. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình. Giá cà phê Arabica lên đứng ở mức cao 14 tháng.
Đồng Reais tăng nhẹ 0,22 %, lên ở mức 1 USD = 5,4420 Reais do nhừ đầu tư kỳ vọng lãi suất tiền tệ sẽ sớm tăng trở lại sau khi có sự can thiệp của chính phủ Brasil vào cổ phiếu xăng dầu. Trong khi đó, USDX sụt giảm trở lại do lo ngại nợ công của chính phủ Mỹ tăng cao với lãi suất trái phiếu dài hạn ở mức cao (1,35 – 1,40%) trong khi lãi suất tiền tệ duy trì ở mức 0% đã kích thích đầu cơ trên các thị trường hàng hóa phái sinh dịch chuyển dòng vốn khiến giá vàng, giá dầu thô suy yếu và giá cà phê tiếp tục tăng vọt.
Giá cà phê không chỉ bật tăng nhất thời do lãi suất kho bạc Mỹ tăng cao đã gây sức ép lên USD, trong khi chứng khoán Mỹ sồi sụt thất thường theo covid-19, cho dù thị trường đã có chút lạc quan khi vắc xin tiêm chủng được sản xuất nhiều hơn. Sương giá mùa đông ở Brasil mới chỉ là dự báo nhưng sản lượng vụ mùa mới năm nay sụt giảm là điều không còn để bàn cãi. Vấn đề là đầu cơ chọn lúc nào để rót vốn vào khiến các sàn cà phê phái sinh bật tăng. (Mời đọc lại bản tin thị trường cà phê ngày hôm qua, 23/02/2021)
Rabobank vừa điều chỉnh giảm dự báo vụ mùa Arabica của Brasil năm nay bớt 1,2 triệu bao so với dự báo hồi tháng 12, xuống còn 36 triệu bao. Đồng thời, Rabobank cũng dự báo cà phê dư thừa toàn cầu khoảng 10 triệu bao trong niên vụ 2020/2021 chuyển sang thiếu hụt khoảng 2,6 triệu bao trong niên vụ 2021/2022. Có thể suy đoán Rabobank dự kiến sản lượng cà phê Brasil năm nay sẽ giảm xấp xỉ 20%.
Vấn đề sương giá mùa đông năm nay ở Brasil hiện đang được thị trường quan tâm nhiều hơn.