Giá cà phê trong nước hôm nay giảm 400 đồng/kg, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 47.000 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 46.300 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng giảm 400 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 46.400 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 46.300 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 400 đồng/kg, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 47,000 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 46,900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 400 đồng/kg, giá ở Pleiku là 46,900 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 46,900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 400 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 46,900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 400 đồng/kg, dao động ở mức 46,900 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 400 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 50,900 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
46,400 |
-400 |
Lâm Hà (Robusta) |
46,400 |
-400 |
Di Linh (Robusta) |
46,300 |
-400 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
47,000 |
-400 |
Buôn Hồ (Robusta) |
46,900 |
-400 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
46,900 |
-400 |
Ia Grai (Robusta) |
46,900 |
-400 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
39,900 |
46,900 |
-400 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
46,900 |
-400 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
50,900 |
-400 |
FOB (HCM) |
2,235 |
Trừ lùi: +55 |
Giá cà phê trong nước tiếp tục có thêm phiên thứ 2 liên tiếp trong tuần này giảm theo đà giảm của sàn London.
Có thể thấy, đây là đợt suy yếu liên tiếp của thị trường cafe trong nước sau khi thiết lập mức đỉnh trong năm nay vào hồi đầu tháng 8/2022. Còn nhớ, đã có thời điểm, giá thu mua cà phê trong nước tiến sát mốc 51.000 đ/kg.
Tuy nhiên, so với đầu năm nay, giá cà phê nội địa hiện vẫn đang tăng mạnh gần 20%.
Tại EU, lượng cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang một số thị trường như Bỉ, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha,… tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, lượng cà phê xuất khẩu sang EU trong tháng 8 tăng 11,8% so với tháng trước lên 41.260 tấn.
Bất chấp lạm phát chạm đỉnh 20 năm, xuất khẩu cà phê sang EU vẫn tăng trưởng tốt. Điều này là do cà phê là mặt hàng thiết yếu, một thức uống không thể thiếu của các nước phương Tây. Mặt khác, lợi thuế thuế quan từ hiệp định EVFTA cũng mang lại động lực lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê vào thị trường này.
Bên cạnh EU, lượng cà phê xuất khẩu sang các thị trường khác cũng đạt mức tăng trưởng ấn tượng như Nga tăng 17,3%, Anh tăng 57,9%, Ấn Độ tăng 116% và Mexico tăng đột biến gấp 52 lần cùng kỳ.
Giá cà phê thế giới tăng
Khảo sát giá cà phê thế giới ngày 28/9/2022, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 11 giảm thêm 24 USD, xuống 2.180 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 1/2023 giảm thêm 18 USD, còn 2.178 USD/tấn, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch duy trì ở mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York có xu hướng hỗn hợp. Kỳ hạn giao ngay tháng 12 tăng thêm 0,55 cent, lên 224,35 cent/lb, trong khi các kỳ hạn giao xa đều sụt giảm. Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 3/2023 giảm 0,20 cent, xuống 216,30 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5/2023 giảm 0,8 cent, còn 211,50 cent/lb,các mức tăng/giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Giá cà phê tiếp tục suy yếu sau hàng loạt NHTW nâng thêm lãi suất tiền tệ ngay sau Fed – Mỹ nhằm góp phần ngăn chặn suy thoái kinh tế thế giới và lạm phát vượt mức.
Thị trường chứng khoán đóng cửa trái chiều do việc tăng lãi suất đã gây căng thẳng cho hầu hết nhà đầu tư ở Phố Wall. USDX điều chỉnh tăng nhẹ tiếp tục gây khó cho giá trị của các tiền tệ mới nổi và hàng hóa nói chung tiếp tục suy yếu. Tỷ giá đồng Reais giảm nhẹ 0,03% xuống ở mức 1 USD = 5,3780 R$ đã hỗ trợ người Brasil gia tăng bán hàng nông sản xuất khẩu.
Tồn kho cà phê đạt chuẩn sàn New York tính tới 26/9 tiếp tục được ghi nhận giảm ở mức 460.387 bao, mức thấp nhất trong 23 năm qua. Cả người sản xuất và giới đầu tư vẫn đang tiếp tục theo dõi về lượng mưa tại các vùng trồng cà phê của Brazil trong tuần này với các dự báo có thể sẽ nhận được lượng mưa tốt và thuận lợi.
Thương mại thị trường đã lên tiếng phàn nàn về những dữ liệu của Conab đưa ra rất không hợp lý đã gây khó cho thị trường và làm sụt giảm niềm tin về bức tranh cung – cầu ở Brasil, cần phải có sự cải thiện phương pháp tính toán dữ liệu để phản ánh thực tế chính xác hơn.