Giá cà phê hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 31.000 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 30.300 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng giảm 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà về mức 30.400 đồng/kg, tại Di Linh về ngưỡng 30.300 đồng/kg.
Song song đó, giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 100 đồng/kg, khu vực Cư M'gar ở mức 31.000 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê giảm 100 đồng/kg về ngưỡng 30.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 100 đồng/kg, ở Pleiku về ngưỡng 30.700 đồng/kg và giá cà phê Ia Grai về mức 30.700 đồng/kg
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 100 đồng/kg , về mức 30.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 100đồng/kg, về mức 30.600 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM đi ngang ở ngưỡng 32.200đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
||
— Bảo Lộc (Robusta) |
30,400 |
-100 |
— Lâm Hà (Robusta) |
30,400 |
-100 |
— Di Linh (Robusta) |
30,300 |
-100 |
ĐẮK LẮK |
||
— Cư M'gar (Robusta) |
31.000 |
0 |
— Buôn Hồ (Robusta) |
30,800 |
-100 |
GIA LAI |
||
— Pleiku (Robusta) |
30,700 |
-100 |
_ Ia Grai (Robusta) |
30,700 |
-100 |
ĐẮK NÔNG |
||
— Gia Nghĩa (Robusta) |
30,700 |
-100 |
KON TUM |
||
— Đắk Hà (Robusta) |
30.600 |
-100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
||
— R1 |
32,200 |
0 |
Ảnh minh họa: internet
Người dân trồng cà phê trong nước đang phải đối mặt với rủi ro kép: Cùng với việc giá bán đi xuống, giá nhân công, phân bón tăng, nông dân còn khó khăn hơn với tình trạng hạn hán ở khu vực Tây Nguyên.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, theo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên, mùa khô năm 2020 tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng có chiều hướng gia tăng. Do đó, nhiều diện tích hoa màu, cây công nghiệp, nhất là cây cà phê không có nước tưới, nhiều hộ dân đang lâm vào tình cảnh thiếu nước sinh hoạt. Ngành cà phê cùng lúc chịu tác động kép do hạn hán và dịch Covid-19 lan rộng khiến giá cà phê chạm đáy 10 năm.
Theo Cục Xuất nhập khẩu dự báo giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới vẫn biến động theo xu hướng giảm. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê thế giới tăng cao trong những năm gần đây, trong khi nhu cầu chỉ tăng từ 2 – 2,5%/năm khiến cung vượt cầu.
Xuất khẩu cà phê tháng 4 năm 2020 ước đạt 165 nghìn tấn với giá trị đạt 272 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2020 đạt 654 nghìn tấn và 1,1 tỉ USD, tăng 3,7% về khối lượng và tăng 1,5% về giá trị so với cùng kì năm 2019.
Đức, Italy và Mỹ tiếp tục là ba thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2020 với thị phần lần lượt là 16% (133,7 triệu USD), 8,6% (72,2 triệu USD ) và 8,5% (70,7 triệu USD).
Giá cà phê xuất khẩu bình quân 4 tháng đầu năm 2020 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 2,1% so với cùng kì năm 2019.
Trong tháng 4, giá cà phê thế giới biến động giảm. Cụ thể, giá xuất khẩu bình quân tháng 4 đạt 1.648 USD/tấn, giảm 5% so với tháng 3, và giảm 2,9% so với cùng kì năm 2019.
Tại sàn giao dịch New York sau nhiều phiên tăng liên tiếp, giá cà phê arabica kì hạn giao tháng 5 giảm mạnh, giao dịch ở mức 2.448 USD/tấn, giảm 5,27% so với tháng trước. Giá cà phê robusta giao tháng 5 thị trường London giảm 102 USD/tấn xuống còn 1.084 USD/tấn.
Giá cà phê giảm do tiêu thụ cà phê toàn cầu giảm dưới tác động của đại dịch COVID-19 và sức ép bán hàng vụ mới từ Brazil.
Giá cà phê cũng chịu ảnh hưởng lớn từ biến động tỉ giá của đồng Real của Brazil, sự mất giá của đồng nội tệ Brazil tạo ra sức cạnh tranh cho các nhà xuất khẩu nước này trên thị trường cà phê thế giới đồng thời gây sức ép lên giá cà phê toàn cầu.
Bên cạnh đó, giá dầu sụt giảm khiến các nhà đầu tư tiếp tục bán tháo làm giá giảm sâu trên khắp các thị trường hàng hóa.
Giá cà phê trong nước biến động giảm cùng xu hướng thị trường thế giới. So với tháng 3, giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 600 – 800 đồng/kg xuống mức 28.400 – 28.900 đồng/kg.
Sau thời gian dài giảm giá kỉ lục thì trong những ngày cuối tháng 4, việc Chính phủ nới lỏng giãn cách xã hội giúp giá cà phê trong nước có nhiều tín hiệu tích cực.
Giá tăng trở lại quanh mức 29.200-29.900 đồng/kg, theo đó, giá cà phê cao nhất tại khu vực tỉnh Đắk Lắk và giá thấp nhất tại khu vực tỉnh Lâm Đồng.
Giá cà phê thế giới trái chiều
Giá cà phê Robusta (ICE Futures Europe)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
05/20 |
1170 |
-7 |
-0.59 |
2 |
1170 |
1156 |
1156 |
1177 |
1505 |
07/20 |
1197 |
-8 |
-0.66 |
5617 |
1207 |
1181 |
1207 |
1205 |
65434 |
09/20 |
1218 |
-8 |
-0.65 |
2651 |
1226 |
1202 |
1224 |
1226 |
32150 |
11/20 |
1238 |
-6 |
-0.48 |
774 |
1245 |
1221 |
1242 |
1244 |
16010 |
Giá cà phê Arabica (ICE Futures US)
Kỳ hạn |
Giá khớp |
Thay đổi |
% |
Số lượng |
Cao nhất |
Thấp nhất |
Mở cửa |
Hôm trước |
HĐ Mở |
05/20 |
105.55 |
+1.10 |
+1.05 |
2 |
105.55 |
103.40 |
103.90 |
104.45 |
500 |
07/20 |
107.20 |
+1.10 |
+1.04 |
10688 |
108.30 |
104.95 |
105.10 |
106.10 |
80529 |
09/20 |
108.45 |
+1.20 |
+1.12 |
5747 |
109.35 |
106.15 |
106.45 |
107.25 |
47667 |
12/20 |
110.30 |
+1.20 |
+1.1 |
3417 |
111.05 |
108 |
108.35 |
109.10 |
47097 |
Ngày 5/5, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 8 USD, xuống 1.197 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 cũng giảm 8 USD, còn 1.218 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì rất thấp dưới mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng 1,1 cent/lb, lên 107,2 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 tăng 1,2 cent/lb, lên 108,45 cent/lb, các mức tăng đáng kể. Khối lượng giao dịch dưới mức trung bình.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.308 USD/tấn, FOB – HCM, với mức chênh lệch cộng 80 – 90 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 9 tại London.
Đồng Reais giảm mạnh hơn 1,49%, xuống ở mức 1 USD = 5,5210 Reais do bất ổn chính trường Brasil gia tăng và quốc gia sản xuất nông sản hàng đầu đã trở thành tâm dịch mới của thế giới, trong khi USDX tăng vọt sau tuyên bố của TT Mỹ đe dọa sẽ xem xét lại các biện pháp thương mại với Trung Quốc như là sự trừng phạt về trách nhiệm vai trò trong đại dịch coronavirus. Đồng Reais suy yếu còn do nhà đầu tư suy đoán Copom sẽ cắt giảm 0,5% lãi suất trong phiên họp chính sách vào ngày hôm nay.
Tuy nhiên, giá cà phê kỳ hạn trở lại trái chiều còn phản ánh sự biến động kinh tế ở hai bờ Đại Tây Dương và tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 kéo dài đã hỗ trợ nhà đầu tư liên tục chu chuyển dòng vốn giữa hai sàn giao dịch cà phê kỳ hạn để tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn.
Theo dự báo của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), lượng tiêu thụ cà phê thế giới năm 2020 sẽ giảm tầm 0,95% do ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Mặc dù cà phê thế giới niên vụ 2019/2020 ước thặng dư khoảng 8 triệu bao, tương đương 480 nghìn tấn, nhưng lượng tồn kho thế giới đang giảm xuống đáng kể.
Tồn kho cà phê arabica giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.848 triệu bao, tương đương 110 nghìn tấn, tồn kho cà phê robusta giảm còn 138 nghìn tấn.
Thông tin một số nước tiêu thụ lớn như Mỹ hay tại Châu Âu muốn ngừng lệnh “giãn cách xã hội” cũng tạo động lực cho các nhà nhập khẩu tăng cường trở lại.
Sức ép bán hàng vụ mới gia tăng mạnh từ nhà sản xuất hàng đầu Brazil làm giá cà phê thế giới cũng như cà phê trong nước sẽ còn trì trệ kéo dài cho tới hết niên vụ cà phê 2019/2020 bởi đại dịch COVID-19 vẫn đang làm nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy thoái.
Cục Xuất nhập khẩu dự báo giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới vẫn biến động theo xu hướng giảm.
Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê thế giới tăng cao trong những năm gần đây, trong khi nhu cầu chỉ tăng từ 2 – 2,5%/năm khiến cung vượt cầu.
Hiện thời tiết khô ráo tại vùng trồng cà phê Brazil thuận lợi cho việc thu hái, trong khi sức cầu yếu do ảnh hưởng của dịch COVID-19 và đồng Real của Brazil gần chạm mức thấp kỷ lục đã tác động lên giá cà phê.