Giá thép xây dựng bất ngờ giảm, "cắt đứt" chuỗi tăng liên tiếp
Sau liên tiếp 7 lần tăng từ đầu năm, giá thép xây dựng trong nước vừa được các công ty thép nội địa đồng loạt giảm giá nhẹ. Mức giảm khoảng 300 - 920 đồng/kg.
Theo đó, nhiều thương hiệu thép lớn như Hoà Phát, Việt Đức, Việt Ý, Thép Thái Nguyên, Thép miền Nam đều đồng loạt thông báo điều chỉnh giảm giá thép từ ngày 11/5.
Trong đợt điều chỉnh này, thương hiệu thép Hòa Phát giảm 310 đồng/kg đối với thép cuộn CB240 và giảm 300 với thép thanh vằn D10 CB300 tại cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Theo đó, giá thép Hòa Phát tại miền Bắc giá thép cuộn CB240 đã xuống mức 18.630 đồng/kg; giá thép thanh vằn CB300 ở mức 18.740 đồng/kg. Còn tại miền Trung và miền Nam, hai sản phẩm này cũng có mức giá lần lượt là 18.680 đồng/kg và 18.790 đồng/kg.
Thương hiệu thép Kyoei cũng điều chỉnh giảm 310 đồng/kg đối với thép cuộn CB240 và giảm 300 đồng/kg với thép thanh vằn D10 CB300. Hiện mức giá của hai sản phẩm này ở mức 18.570 đồng/kg và 18.780 đồng/kg.
Thép Việt Ý giảm 310 đồng/kg đối với cả hai sản phẩm. Hiện giá thép cuộn CB240 ở mức 18.580 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 là 18.680 đồng/kg. Cùng mức giảm này còn có thép Thép Thái Nguyên. Sau giảm giá, thép cuộn CB240 của Thép Thái Nguyên có giá mới là 19.080 đồng/kg, còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá 19.230 đồng/kg.
Có mức giảm nhiều hơn, Thép miền Nam giảm 600 đồng/kg đối với mặt hàng thép cuộn CB240, xuống mức 18.680 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 giảm 610 đồng/kg, hiện có giá 18.880 đồng/kg.
Thép Tung Ho cũng giảm 610 đồng/kg đối với cả hai sản phẩm là thép cuộn CB240, thép thanh vằn D10 CB300. Hiện thép cuộn CB240 của thương hiệu này có giá bán mới là 18.370 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 có giá 18.520 đồng/kg.
Trong đợt điều chỉnh giảm giá bán đầu tiên của năm 2022, thương hiệu thép Việt Đức ghi nhận có mức giảm mạnh nhất. Cụ thể, tại miền Trung, thép Việt Đức giảm 910 đồng/kg đối với thép cuộn CB240 và giảm 920 đồng/kg đối với thép thanh vằn D10 CB300. Như vậy, mức giá mới lần lượt là 18.880 đồng/kg và 19.180 đồng/kg.
Còn tại miền Bắc, Thép Việt Đức cũng điều chỉnh giảm 310 đồng/kg đối với thép cuộn CB240 và giảm 300 đồng/kg đối với thép thanh vằn D10 CB300. Sau khi giảm, mức giá mới của hai sản phẩm này lần lượt là 18.570 đồng/kg và 18.880 đồng/kg.
Lý giải nguyên nhân khiến các doanh nghiệp thép đồng loạt giảm giá, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết hiện giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất thép đã giảm đáng kể. Hiện giá thép trên thế giới cũng giảm do giá nguyên liệu đầu vào đã hạ nhiệt trong thời gian qua.
Giá sắt thép xây dựng hôm nay trên Sàn giao dịch Thượng Hải
Giá thép xây dựng ngày 13/5, giao tháng 10/2022 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 39 nhân dân tệ xuống mức 4.617 nhân dân tệ/tấn tại thời điểm khảo sát vào lúc 10h (giờ Việt Nam).
Bảng giá giao dịch tương lai của một số kim loại trên Sàn Thượng Hải (Đơn vị: nhân dân tệ/tấn)
Vào hôm thứ Năm (12/5), giá than luyện kim của Trung Quốc giảm hơn 4%, Reuters đưa tin.
Nguyên nhân là nhu cầu thấp ở hạ nguồn làm suy giảm tâm lý thị trường, trong khi cam kết gần đây của chính phủ về việc giám sát chặt chẽ hơn đối với giá than dự kiến sẽ hạn chế bất kỳ mức tăng đáng kể nào.
Theo đó, giá than luyện cốc kỳ hạn giao tháng 9/2022, được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên (DCE), kết thúc phiên giảm 4,2% xuống mức 2.544 nhân dân tệ/tấn.
Tương tự, giá than cốc giảm 3,6% xuống 3.281 nhân dân tệ/tấn trong cùng ngày giao dịch.
Đối với quặng sắt, giá kỳ hạn trên Sàn DCE tăng 4% trong phiên giao dịch buổi sáng, nhưng đổi hướng đóng cửa thấp hơn 1,4% ở mức 796 nhân dân tệ/tấn.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE), các mặt hàng thép được giao dịch trong giới hạn biên, trong đó giá thép cây xây dựng giao tháng 10/2022 giảm 1%, ghi nhận mức 4.612 nhân dân tệ/tấn.
Tương tự, giá thép cuộn cán nóng cũng giảm 0,6% xuống 4.730 nhân dân tệ/tấn, và giá thép không gỉ kỳ hạn giảm nhẹ 0,1% xuống 18.865 nhân dân tệ/tấn.
Hiện tại, các nhà máy luyện cốc và nhà máy thép đang cố gắng kiểm soát các kho dự trữ than luyện cốc của họ và thu mua theo yêu cầu.
Phát triển ngành thép đang mất cân đối
Theo Bộ Công Thương, sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm sau thép như tôn mạ kẽm, thép ống tăng trưởng tốt, còn thép hợp kim, cuộn cán nóng (HRC) vẫn phải nhập khẩu số lượng lớn.
Cụ thể, năng lực sản xuất phôi thép của các doanh nghiệp trong nước là 27 triệu tấn một năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) khoảng 7-8 triệu tấn. Nhưng nguyên liệu sản xuất phần lớn nhập khẩu (như năm nay sẽ nhập hơn 18 triệu tấn quặng sắt, thép phế 6-6,5 triệu tấn, than mỡ 6,5 triệu tấn...) cho sản xuất.
Bộ Công thương nhận định, năng lực cạnh tranh của ngành thép thấp, cung trong nước chưa đáp ứng đủ cầu. Doanh nghiệp trong nước cũng chưa sản xuất được các loại thép hợp kim đặc biệt.
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển ngành thép, Bộ Công thương cho hay sẽ xác định lộ trình xử lý, đề xuất các chính sách cụ thể với các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lạc hậu, cũ; chính sách khuyến khích nhà đầu tư chuyển đổi sang công nghiệp sản xuất thép hiện đại, thân thiện môi trường.