Giá thép xây dựng hôm nay 18/11/2020: Duy trì xu hướng tăng

(VOH) - Giá thép ngày 18/11 duy trì đà tăng trên Sàn giao dịch Thượng Hải. Tuy nhiên, giá thép không gỉ giảm xuống mức thấp nhất 5 tháng do dự báo sản lượng của Trung Quốc sẽ tiếp tục cao.

Giá thép thế giới tăng

Giá thép ngày 18/11 giao tháng 1/2021 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 8 nhân dân tệ lên mốc 3.897 nhân dân tệ/tấn tại thời điểm khảo sát vào lúc 9h30 (giờ Việt Nam).

Giá thép xây dựng hôm nay 18/11/2020
Ảnh minh họa: internet

Bảng giá giao dịch tương lai của một số kim loại trên sàn Thượng Hải (Đơn vị: nhân dân tệ/tấn)

Theo Reuters, vào hôm thứ Ba (17/11), giá quặng sắt kì hạn chốt phiên cao hơn trong phiên giao dịch trong ngày tại Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE).

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2021 tăng 22 nhân dân tệ (tương đương 3,34 USD) lên mức 855 nhân dân tệ/tấn.

Tổng khối lượng giao dịch của 12 hợp đồng quặng sắt kì hạn niêm yết trên sàn giao dịch là 1.147.628 lô, với kim ngạch là 95,3 tỉ nhân dân tệ.

Sau khi vượt qua sự sụt giảm nhu cầu không thể tránh khỏi do đại dịch COVID-19, ngành công nghiệp thép của Ấn Độ đang phục hồi trở lại với sản lượng thép thô đạt 6,9 triệu tấn trong tháng 6, cao hơn 17,7% so với hồi tháng 5 năm 2020.

Giá bán lẻ của thép cuộn cán nóng (HRC), thép cuộn cán nguội (CRC) và thép cây tăng lần lượt 1,43%, 1,69% và 2,17% trong tháng 6 do việc nới lỏng lệnh cấm vận cùng với tăng cường xuất khẩu.

Cơ quan xếp hạng ICRA cho biết, xuất khẩu thép thành phẩm của Ấn Độ tăng mạnh 140% trong tháng 7, trong khi tăng trưởng xuất khẩu cho cả thép bán thành phẩm và thép thành phẩm thậm chí còn cao hơn ở mức 207% trong cùng kì. Ngược lại, nhập khẩu thép giảm 42% giúp Ấn Độ giữ vị trí nhà xuất khẩu thép ròng trên thế giới.

Từ tháng 7 đến nay, giá thép liên tục điều chỉnh tăng do nhu cầu trong nước được cải thiện và khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường xuất khẩu giảm. Điều này khiến sản lượng thép xuất khẩu dự kiến sẽ giảm mạnh trong thời gian tới.

Chính phủ Ấn Độ đã đặt mục tiêu nâng công suất sản xuất thép thô của Ấn Độ lên 300 tấn vào năm 2030.

Nhập khẩu sắt thép 10 tháng đầu năm giảm cả lượng, kim ngạch và giá

 Lượng sắt thép nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2020 đạt trên 11,28 triệu tấn, tương đương 6,65 tỷ USD, giá trung bình 589,7 USD/tấn.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng sắt thép các loại nhập khẩu về Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2020 đạt trên 11,28 triệu tấn, tương đương trên 6,65 tỷ USD, giá trung bình 589,7 USD/tấn, giảm 7,5% về lượng, giảm 17,6% về kim ngạch và giảm 10,96% về giá so với 10 tháng đầu năm 2019.

Tính riêng tháng 10/2020 đạt 919.539 tấn, tương đương 599,21 triệu USD, giá trung bình 651,7 USD/tấn, giảm 9,1% về lượng, giảm 4,8% về kim ngạch, nhưng tăng 4,7% về giá so với tháng 9/2020. Trong tháng 10/2020, nhập khẩu sắt thép từ đa số thị trường giảm kim ngạch so với tháng 9/2020; trong đó giảm mạnh ở thị trường: Australia giảm 82% cả về lượng và kim ngạch, đạt 6.053 tấn, tương đương 2,37 triệu USD; Indonesia giảm 53,6% cả về lượng và giảm 50,9% kim ngạch, đạt 13.437 tấn, tương đương 22,88 triệu USD; Tuy nhiên, nhập khẩu tăng mạnh ở các thị trường: Nga tăng 57,3% về lượng và tăng 68,2% về kim ngạch, đạt 70.117 tấn, tương đương 30,35 triệu USD.

Tính chung cả 10 tháng đầu năm 2020, sắt thép xuất xứ từ Trung Quốc nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất, đạt trên 2,99 triệu tấn, tương đương 1,9 tỷ USD, giá trung bình 636,6 USD/tấn, chiếm trên 26,5% trong tổng lượng và chiếm 28,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của cả nước, giảm trên 35% cả về lượng và kim ngạch nhưng tăng nhẹ 0,1% về giá so với cùng kỳ năm 2019.

Nhìn chung, trong 10 tháng đầu năm 2020 nhập khẩu sắt thép từ phần lớn các thị trường bị sụt giảm so với cùng kỳ năm 2019; trong đó giảm mạnh từ các thị trường: Brazil giảm 87% về lượng và giảm 90,3% về kim ngạch, đạt 30.250 tấn, tương đương 11,86 triệu USD; Malaysia giảm 82% về lượng và giảm 74,5% về kim ngạch, đạt 53.481 tấn, tương đương 46,61 triệu USD. Ngược lại, nhập khẩu tăng cao từ một số thị trường: Australia tăng 41,7% về lượng và tăng 20,8% về kim ngạch, đạt 105.242 tấn, tương đương 45,55 triệu USD; Nga tăng 38,9% về lượng và tăng 8,6% về kim ngạch, đạt 425.771 tấn, tương đương 177,03 triệu USD.