Giá thép xây dựng thế giới tăng
Giá thép thanh giao tháng 5 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 38 nhân dân tệ lên 3.358 nhân dân tệ/tấn vào lúc 9h30, ngày 6/4, giờ Việt Nam.
Ảnh minh họa: internet
Quặng sắt vẫn là một trong những điểm sáng của ngành khai khoáng với giá vẫn cao hơn mức 80 USD/tấn trong phần lớn năm nay bất chấp tác động của đại dịch COVID-19, theo Stockhead.
Khoảng 38% số người tham gia khảo sát mới nhất của S & P dự kiến giá quặng sắt sẽ duy trì trong khoảng từ 80 - 90 USD/tấn trong khi 28% cho rằng giá ở mức 70 - 80 USD/tấn.
Hầu hết những người tham gia khảo sát đều dự kiến chính phủ Trung Quốc sẽ sử dụng đầu tư cơ sở hạ tầng làm biện pháp chính để hỗ trợ nền kinh tế.
Báo cáo Tài nguyên và Năng lượng theo quí (REQ) mới nhất của Australia ước tính quặng sắt sẽ là mặt hàng đầu tiên có thu nhập từ xuất khẩu vượt 100 tỉ USD chỉ trong một năm nhờ một phần không nhỏ vào tỉ giá hối đoái giữa đồng USD và đồng đô la Australia.
Tuy nhiên, dự báo dài hạn về quặng sắt có thể ít khả quan hơn với việc Wood Mackenzie cho rằng giá sẽ nghiêng về mức 70 USD/tấn trong suốt năm nay.
Công ty Mineral Resources (ASX: MIN) tin rằng tương lai của mặt hàng nguyên liệu thô vẫn sáng sủa và đã tìm kiếm nguồn cung lớn hơn ở Pilbara bằng cách mua dự án Buckland từ BCI Minerals (ASX: BCI) với giá 20 triệu USD.
Giá thép thế giới vẫn tụt dốc
Chênh lệch cung cầu thép trong vài tháng qua đã tạo áp lực lớn lên giá nguyên vật liệu thô và các sản phẩm. Các nhà máy thép Trung Quốc có đơn hàng xuất khẩu rất thấp, chưa kể các đơn đã đặt bị hủy bỏ hoặc cắt giảm số lượng. Dự báo diễn biến khó khăn này có thể tiếp diễn trong vài tháng tới.
Giá thép tại thị trường Trung Quốc giảm liên tục trong 10 ngày đầu tháng 3 trước khi các hoạt động giao dịch tăng trở lại. Các hợp đồng tương lai thép nhìn chung cũng nằm trong xu hướng giảm khi chứng kiến một số thị trường chứng khoán thế giới ngắt mạch trong các phiên giao dịch.
Tốc độ vận hành các lò cao có thể sẽ tăng hơn nữa trong tháng 4, sản lượng thép thô của Trung Quốc ước đạt 80 – 82 triệu tấn, tăng khoảng 10 triệu tấn so với tháng 3 nhưng giảm 2 – 4 triệu tấn so với cùng kì năm ngoái. Xuất khẩu thép Trung Quốc có thể tiếp tục gặp khó khăn và đạt khoảng 3 triệu tấn trong tháng 4, trong khi nhập khẩu ước đạt 1 triệu tấn.
Đồng thời, giá thép quốc tế vẫn nằm trong xu hướng giảm do nhu cầu hàng hóa này thu hẹp mạnh tại nhiều quốc gia. Đặc biệt ở các nước phát triển như châu Âu, Mỹ, nơi bùng phát COVID-19 khiến nền kinh tế hầu như bị đóng băng.
Theo một số nguồn tin, nhiều tổ chức trên thế giới buộc phải cho nhân viên nghỉ việc. Số lao động xin trợ cấp thất nghiệp mới nhất ở Mỹ đạt 3,28 triệu người và dự báo con số này sẽ tiếp tục tăng cao.
Nguồn cung quặng sắt toàn cầu trở nên dư thừa khi nhiều nhà máy ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… có thể tạm ngừng hoặc giảm hoạt động trong thời gian dịch bệnh lây lan mạnh.
Trong khi đó, các nhà máy thép Trung Quốc có đơn hàng xuất khẩu rất thấp, chưa kể các đơn đã đặt bị hủy bỏ hoặc cắt giảm số lượng.
Việc các nhà máy thép nước ngoài cắt giảm sản xuất cũng khiến giá quặng sắt biến động mạnh trong tháng. Tại ngày 24/3, giá quặng sắt 61,5% Fe đường biển ghi nhận 83,2 USD/tấn, tăng 0,2 USD/tấn so với cuối tháng 2.
Giá giao ngay khoảng 640 – 650 nhân dân tệ/tấn (90,6 – 91,5 USD/tấn), tăng 10 nhân dân tệ/tấn. Hợp đồng quặng sắt giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch Hàng hóa Đại Liên đóng cửa với mức 639,5 nhân dân tệ/tấn, tăng 23 nhân dân tệ/tấn.
Theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc, nước này nhập khẩu 176,8 triệu tấn quặng sắt trong hai tháng đầu năm, tăng 2,5 triệu tấn (1,5%) so với cùng kì năm ngoái. Trong khi sản lượng quặng sắt giảm 4,6% còn hơn 111 triệu tấn, sản lượng gang tăng 3,1% lên 132,3 triệu tấn.
Lượng tồn kho quặng sắt tại 46 cảng chính của Trung Quốc đạt trên 123,7 triệu tấn tại ngày 19/3, giảm 3,2 triệu tấn so với cuối tháng 2. Giao dịch trung bình hàng ngày tăng nhẹ lên khoảng 2,9 triệu tấn.
Tại một số quốc gia như Brazil, Australia, xuất khẩu quặng tháng 2 đạt tương ứng 22,1 và 60,8 triệu tấn, giảm 23,6% và tăng 1,7% so với cùng kì năm ngoái. Tại ngày 22/3, lượng xuất khẩu tại hai quốc gia này giảm xuống còn 13,6 và 53,3 triệu tấn.