1. U máu ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ là bệnh gì?
U máu (u mạch máu) là một loại u lành tính, được cấu tạo bởi nhiều tế bào nội mạc lát thành mạch máu, thường xuất hiện dưới dạng một nốt sáng – đỏ, có bề mặt giống quả dâu tây.
Loại u này có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi trên cơ thể như: da, đầu, mặt, cổ, mắt, ngực, lưng, chân, tay hoặc bên trong nội tạng như gan,... Tuy nhiên, chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 60%) là các trường hợp u máu mọc ở vùng đầu, mặt và cổ.
2. U máu ở trẻ phát triển như thế nào?
Các bác sĩ cho biết, bệnh u máu ở trẻ sẽ có hai hướng phát triển, đó là:
2.1 U máu trên da
U máu trên da là sự tích tụ bất thường các mạch máu trên hoặc dưới bề mặt da. Một nốt u máu trông giống như vết bớt màu đỏ có thể nhô ra khỏi da.
Sự tăng trưởng của các tế bào ngoài cùng của da được gọi là u máu mao mạch, còn những nốt nằm sâu dưới da được gọi là u máu thể hang. U máu mao mạch thường không cần điều trị, nhưng u máu thể hang thì cần phải nhờ đến sự can thiệp của y tế nếu chúng cản trở thị lực hoặc khả năng hô hấp của trẻ.
U máu trên da thường phát triển trong giai đoạn em bé còn ở trong bụng mẹ (Nguồn: Internet)
U máu trên da thường thường phát triển trong giai đoạn em bé chưa chào đời. Và loại u này có thể ảnh hưởng cả bé trai cũng như bé gái.
2.2 U máu trên gan
U máu trên gan ở trẻ em được hình thành bên trong và trên bề mặt gan. Những nốt này được cho là nhạy cảm với estrogen. Quá trình mang thai có thể làm tăng kích thước của u máu trên gan em bé.
3. Đối tượng nào có nguy cơ mắc phải?
Bệnh u mạch máu thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khi có những tình trạng sau:
- Trẻ sinh non.
- Mẹ bầu mang đa thai.
- Người mẹ có cân nặng thấp khi sinh.
4. Dấu hiệu nhận biết bệnh u máu ở trẻ
Diễn biến của một u máu điển hình có thể dự đoán được một cách tương đối. Biểu hiện của bệnh u máu được chia thành 3 cấp độ:
- Cấp độ thứ nhất: Đây là dạng nhẹ với dấu hiệu là những thay đổi màu sắc (thường là đỏ, đỏ tím hoặc phớt xanh). Ở giai đoạn này, bệnh ít tạo thành khối u, cục hay khối. Đa phần chúng bằng phẳng như một cái bớt.
- Cấp độ thứ 2: Ở cấp độ này, u máu phát triển thành một khối u thực sự, chúng gồ lên, nổi lên hoặc đội da lên thành một khối u có hình dạng, kích thước rõ ràng. Tất nhiên, màu sắc của u máu vẫn như cũ, đó là màu của máu trong khối u.
- Cấp độ thứ 3: Hình dạng, kích thước giống với cấp độ 2 nhưng có biểu hiện kèm theo khi khối u vỡ ra hay biến chứng. Thường là chảy máu nếu khối u ở ngoài da và bị loét nếu khối u nằm sâu trong phần mềm.
Ngoài ra, còn có những dấu hiệu đặc thù tại từng bộ phận mà khối u máu to lên, chèn ép vào tạng và cơ quan chủ đích.
5. Bệnh u máu ở trẻ có nguy hiểm không?
U máu ở trẻ là một bệnh lý bẩm sinh về mạch máu. Nhìn chung, đây là một loại bệnh lành tính, không di căn, không tái phát (nếu điều trị đúng) và đặc biệt là không nguy hiểm đến tính mạng.
Hầu hết các trường hợp trẻ bị u máu sẽ tự thoái triển mà không cần điều trị (Nguồn: Internet)
Tuy nhiên, tùy theo từng loại u máu cũng như mức độ của bệnh mà các bác sĩ có thể sẽ đưa ra quyết định có nên điều trị hay không. Bởi hầu hết các u máu sẽ không cần điều trị vì có thể tự thoái triển theo thời gian.
Sự cải thiện của u máu diễn ra trong nhiều năm, khoảng một nửa u máu sẽ cải thiện tốt lúc trẻ được 5 tuổi và phần lớn u máu sẽ thoái triển rõ rệt khi trẻ được 10 tuổi. Cần lưu ý dù màu sắc của u máu có biến mất hay nhạt đi sau khi thoái triển nhưng sự giãn da và sẹo vẫn có thể tồn tại vĩnh viễn.
Những trường hợp trẻ bị u máu cần phải được theo dõi định kỳ và điều trị là:
- U máu gây ảnh hưởng chức năng, bao gồm: hạn chế tầm nhìn, cản trở đường thở hay làm giảm thính lực...
- U máu có biến chứng loét, chảy máu, nhiễm trùng...
- Khi u máu có khả năng gây ra giãn hay để lại sẹo, đặc biệt là ở mặt, ngực...
6. Cách chữa u máu ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ như thế nào?
Như đã nói, u máu đa phần là lành tính và không cần điều trị đặc biệt, theo thời gian chúng sẽ teo và biến mất. Nhưng cũng có những loại u máu không nhỏ đi mà tồn tại như một khối u thực sự. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm lý và thẩm mỹ của bé. Lúc này, việc điều trị thực sự hữu ích.
6.1 Điều trị tại chỗ
- Thuốc chẹn beta: Điển hình là Timolol, thuốc này có thể ngăn cản sự phát triển và thỉnh thoảng làm giảm kích thước hay màu sắc của các u máu nằm trên bề mặt da.
- Thuốc thoa chứa Steroid: Loại thuốc này có thể ngăn chặn sự phát triển của các u máu nhỏ, phẳng trên mặt da. Tuy nhiên chúng ít được dùng vì có thể gây nhiều tác dụng phụ.
- Tiêm Steroid: Thuốc có thể tiêm trực tiếp vào u máu để làm chậm lại sự phát triển, thuốc có tác dụng tốt nhất đối với các u máu nhỏ và khu trú.
6.2 Điều trị toàn thân
- Propranolol: Là một loại thuốc uống, chủ yếu được dùng để điều trị các trường hợp u máu có biến chứng. Tuy nhiên, khi dùng thuốc này cần hết sức lưu ý vì nó có thể gây hạ đường huyết nếu trẻ không được ăn đủ cữ.
- Ngoài ra thuốc còn gây hạ huyết áp và chậm nhịp tim. Do đó, việc dùng thuốc cần có sự theo dõi chặt chẽ từ phía bác sĩ.
6.3 Các phương thức điều trị khác
- Điều trị bằng laser: Phương pháp này hữu ích đối với các u máu chảy máu hay giúp làm lành các u máu loét. Đồng thời cũng có thể giúp xóa bỏ những di chứng về màu sắc và hình dạng sau khi u máu thoái triển.
- Điều trị phẫu thuật: Thường áp dụng cho các trường hợp u máu nhỏ loét hoặc nằm ở vị trí mà khi phát triển sẽ gây ảnh hưởng chức năng hay thẩm mỹ. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được áp dụng khi thực sự cần thiết.
Nói chung, u máu là một loại bệnh tương đối an toàn, có thể tự khỏi và không gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Các can thiệp trong những hợp này cũng không quá phức tạp. Đặc biệt rất ít khi u máu phải can thiệp điều trị bằng phẫu thuật.