Những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan sống mãi với thời gian

VOH - Những tác phẩm thơ Bà Huyện Thanh Quan luôn ẩn chứa tinh tế, ý nhị những suy nghĩ, trăn trở về con người và sự tình trong thời cuộc của một nữ nhi khao khát tiếng nói riêng.

Thơ của Bà Huyện Thanh Quan tuy không nhiều nhưng lại thể hiện rất rõ tài năng và phong cách của bà, khiến bà trở thành một trong những nữ sĩ tiêu biểu của thơ ca Nôm Việt Nam.

Cùng tìm hiểu thơ Bà Huyện Thanh Quan trong bài viết dưới đây.

Tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan (1805 - 1848) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nữ thi nhân thời cận đại của văn học Việt Nam. Thơ của bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật nhưng cũng giàu nhạc điệu và đầy chất nữ tính. 

Bà người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Lý (1755 - 1837), đỗ thủ khoa năm 1783 đời vua Lê Hiển Tông. Chồng bà Lưu Nghị (1804 - 1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông Nghị đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2), từng làm Tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.

tho-ba-huyen-thanh-quan-voh-2
Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho đời những bài thơ sống mãi với thời gian - Ảnh: Internet

Những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan hay nhất

Vốn là phận nữ nhi, không thể trực tiếp thể hiện tiếng nói của mình, Bà Huyện Thanh Quan muốn dùng văn thơ để diễn tả “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” về thời cuộc. Cùng đọc những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan để hiểu thêm về điều này.

Qua đèo Ngang

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông rợ mấy nhà.

 

Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà, mỏi miệng cái da da.

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Buổi chiều lữ thứ

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

 

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Thăng Long hoài cổ

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

 

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn chau mặt với tang thương.

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

tho-ba-huyen-thanh-quan-voh-1
Ảnh: Canva

Chiều hôm nhớ nhà

Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,

Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.

Ngàn mai lác đác, chim về tổ,

Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.

 

Còi mục thét trăng miền khoáng dã,

Chài ngư tung gió bãi bình sa.

Lòng quê một bước nhường ngao ngán,

Mấy kẻ tình chung có thấu là?

Cảnh Hương Sơn

Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này,

Thuyền nan đón khách máy chèo lay.

Hai bên quả núi lồng hương suối,

Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây.

 

Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy,

Chùa tiên bát ngát khói hương bay.

“Nam vô” tiếng dậy thưa trần tục,

Non nước Bồng Lai mới thấy đây!

Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Trước sàng linh khóc mà than rằng:

Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,

Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.

 

Mẹ lìa! Mẹ ơi!

... con, tình thảm thiết, sao đành,

Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể.

Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi.

Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị.

 

Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia,

Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế.

Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu,

Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế.

 

Ôi!

Lá rụng ngàn xuân,

Mây lồng đỉnh dãy.

Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tào khang,

Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể.

 

Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,

Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.

Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng,

Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế.

 

Rày:

Nhân tiết hạ thiên,

Lâm tuần đoan ngọ.

Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế.

Trên đây là một số thông tin về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan cùng những bài thơ hay nhất của bà. Hy vọng bài viết đã giúp bạn có những phút giây thư giãn với những bài thơ hay của nền văn học Việt Nam.

Đừng quên theo dõi chuyên mục Sống đẹp của voh.com.vn để cập nhật liên tục những kiến thức mới nhất, hấp dẫn nhất.